Nội dung:
8- Một đám mây râm mát.
9- Đành phải gieo mạ ngầm.
10- Túp chòi quay.
11- Cặp trâu không sừng.
12- Ươm giống mận hồng đào vào thịt nai.
13- Có bầy nai không bao giờ kêu.
14- Trời sanh xương sống heo rừng ngay đơ như cán cuốc.
15- Có đi có lại.
16- Lúa nở ngầm.
17- Kho lương thực của chim kéc và chiếc tàu bằng xương.
18- Vì thù vặt mà chúa sơn lâm trở thành kẻ khổ sai.
*
* * *
8- MỘT ĐÁM MÂY RÂM MÁT.
Sau những cuộc phiêu lưu không gian cực kỳ nguy hiểm, hai ông cháu bác Ba Phi không còn tổ chức đốt lửa bắt rùa hoặc đi sâu vào rừng U Minh săn bắt nữa. Mùa màng đã tới. Mưa đổ lai rai mấy đám ướt mặt đất đồng. Hai ông cháu chuyển sang lo việc mạ mộng.
Năm nay dọc theo rừng, những cụm tràm thoi thoi bị lửa cháy sạch, bày nhiều bãi đất trống như sân, mặt phủ đầy tro. Qua mấy trận mưa, tro trộn vào đất tạo thành những lớp da lợn béo dầy đến xâm xấp mắt cá chân. Những nơi nầy lúa giống ngâm lên ba càng một mộng, vãi xuống là hít ngay.
Vì vậy mà ông cháu bác Ba Phi quyết định gieo “gác” một đám mạ trên bãi tro trong hậu đất. Đã sống trên vùng đất nầy gần trọn cuộc đời, thời tiết, nắng mưa đã ngấm vào xương vào máu của bác Ba Phi. Cơ thể của bác đã trở thành cái “hàn thử biểu” dự báo được hiện tượng nắng mưa trước vài ba ngày. Lần nầy bác Ba Phi chắc ăn như ghịt, hồ hởi bảo thằng Đậu lúc hai ông cháu đội lúa giống ra đồng:
– Tin đi ! Đám mạ gieo gác trong vài ngày nay, nó sẽ trúng móp môi.
Nhưng thằng Đậu thì nghĩ theo kiểu của nó: Một đám mạ gieo gác cặp mé rừng U Minh, trước hết các loài chim nhỏ sẽ bu lại ăn lúa giống, chừng đó mặc sức mà đánh bẫy. Những con chim dòng dọc mình rằn xám, đầu đội mũ vàng óng, giống mấy thằng cha cò hiến bình ngụy ở chợ Cà Mau. Những con chim áo dà đội mũ đen, mặc áo nâu trông hiền lành tựa các vị ni cô. Những con chim manh manh trổ lông mã đỏ ối như đóa hoa vông có điểm nhiều hột gạo…
– Trời chuyển mưa sắp tới, ông nội chắc như vậy. Cái “đài thủy văn” đã báo động trong mình ông rêm từ khớp xương đây nầy.
Bác Ba Phi lên tiếng làm cắt ngang luồng xuy nghĩ về chim của thằng Đậu. Nó chuyển suy nghĩ qua ông nội: “Ông nội làm như con của ông trời vậy. Lúc nào ông bảo nhức đầu, sổ mũi thì sắp tới sẽ có một đợt nắng gắt. Lúc nào ông bảo rêm mình, nhức xương thì sẽ có mưa lai rai. Lúc nào sắp trở bấc thì ông bảo thắt lưng, nặng ngực… Lần nào cũng trúng bóc”.
Thằng Đậu cứ đội thúng lúa trên đầu, vừa đi vừa nghĩ:
– “Chiều nay thế nào cũng có một trận mưa. Giống sạ xuống bãi đất tro gặp mưa rào thì… hết sẩy. Phục tài ông nội quá ! Bây giờ đang mưa ở đâu mà trời cứ vần vũ hoài ? Tại sao có đám mây đen cứ che trên đầu làm mát một lõm tựa bóng cây dù vậy ?” – Thằng Đậu cứ nghe tiếng mây bay rì rào bên trên. Nó khoái chí hối ông nội đi nhanh. Càng đi thằng Đậu càng thấy như sức mạn tăng hơn, thúng lúa trên đầu dần dần nhẹ bớt ! Nổi hứng lên, thằng Dậu nhảy nhót, cất tiếng hát:
“Con chim nho nhỏ
Mỏ đỏ lông xanh
Đỏ mòng, xanh kiếng
Chim kêu nhiều tiếng
Nhiều tiếng lạ lùng
Kêu sao ? Kêu lại
Cho ta nghe cùng, hỡi chim…”
Đến nền đám mạ, ông cháu bác Ba để hai thúng lúa giống trên đầu xuống. Họ vụt bật ngửa ra, kêu lên một tiếng thất thanh:
– Ơi là trời !
Hai thúng lúa giống của hai ông cháu bác Ba Phi không còn một hột. Lúa không cánh mà bay đâu mất, thay vào đó là đầy vun hai thúng chim ! Lũ chim trong hai thúng bị chao động giật mình bay lên một cái rần. Ông cháu bác Ba Phi ngơ ngác nhìn theo. Trạc hà sa số là chim ! Chim kết thành dề bay mát một vùng trời, cất tiếng kêu ríu rít như tỏ lời cảm ơn người có tấm thạnh tình chiêu đãi chúng một trận no nê. Rồi sau đó “đám mây râm mát” trên bầu trời tan dần, nắng lại đổ gay gắt. Tất nhiên hai ông cháu bác Ba Phi đành trở về nhà đội hai thúng lúa giống khác.
9- ĐÀNH PHẢI GIEO MẠ NGẦM.
Lần này ông cháu bác Ba Phi nhứt định không cho lũ chim từ trên trời hạ xuống ăn hai thúng lúa giống nữa. Vừa đội thúng lúa đi họ vừa cầm nhánh cây huơ huơ bên trên để đuổi chim, bác Ba bực bội, cứ chửi lầm bầm:
– Mồ tổ cha tụi mầy, đầu ông đâu phải là cái sân chim mà cứ bu vào ?
Thấy ông nội giận ngang xương, thằng Đậu mắc tức cười. Nó nghĩ bụng: “Ông nội chẳng thường nói: “Lúa thóc tới đâu bồ câu tới đó”. Biết vậy mà còn khó tánh. Thằng Đậu nãy giờ đã liệng bỏ nhánh chà, nó cởi áo bịt kín miệng thúng, đội đi theo sau. Tính bác Ba luôn ở trần, có áo đâu mà làm theo, mà dù có áo thì bác Ba cũng để vắt vai chơi.
Lần này hai ông cháu bác Ba Phi đội hai thúng lúa giống tới nền đám mạ, nhờ có cách giữ gìn chu đáo nên chim chỉ ăn mất độ vài ba lít. Bác Ba bắt đầu xổi lúa giống ra cho bời rời để dễ vãi. Đang làm, bác nghe thằng Đậu gọi giật ngược:
– Cái áo con bị rách một lỗ tổ cha nè, ông nội !
Bác Ba quay lại:
– Đưa coi ! Bị cây chà quào hả ? Có trầy xể gì không ?
Thật ra chiếc áo của Thằng Đậu bị chim moi ăn lúa nên rách. Thằng Đậu đưa chiếc áo cho ông nội xem, nó quay mặt chỗ khác, bụm miệng cười sùng sục. Bác Ba ngớ ra, ném chiếc áo xuống đất, hỏi:
– Tại sao áo dính đầy cứt chim đây nè ?
Thằng Đậu thuật lại cách làm của nó cho ông nội nghe và kết luận:
– Chẳng thà làm vậy rồi giặt áo còn sướng hơn. Ai như ông nội sợ dơ áo phải mắc công gội đầu.
Thằng Đậu nói thật tình không có ý gì móc ngoéo ông nội. Nhưng bác Ba hiểu lầm, trợn tròn mắt, vớ lấy nhánh chà vung lên, quát:
– Mồ tổ ! Mầy nói đầu ông nội mầy là cái cầu tiêu của chim ỉa hả?
Thấy ông nội giận đùng đùng, thằng Đậu co giò phóng thụt mạng. Nó dẫm bừa lên những đống chà khô, đám cỏ gạo mà chạy. Càng chạy thằng Đậu càng nghe phía sau dội theo tiếng rốp rốp, rào rào, nó đinh ninh là ông nội đang đuổi nột. Đậu quẹo qua, đâm sầm vào một đám sậy cháy lưa thưa, lủi tuốt vào một lùm dây dác nằm chò co trong ấy để trốn. Nó ôm đầu thở hào hển, nghe trống ngực đánh dội lên tới hai màng tang, mắt nổ đom đóm, cổ đắng nghét.
Nằm một hồi hết mệt, Đậu định trở lại gieo giống tiếp ông nội. Nhưng khi nhóm lên định đi, nó chợt nghe có tiếng một con dế gáy đâu đây. Theo tiếng dế Đậu lần tới. Đúng rồi, chỗ gốc cây mục có nùi cỏ ủ kia. Thằng Đậu rón rén nhích tới từng bước…
Đang lom khom tìm chỗ con dế ẩn núp, thằng Đậu chợt nghe phía sau có tiếng động ồ ào. Nó ngỡ là ông nội đi tìm, liền khoát tay ra sau, lên tiếng:
– Để con bắt dế rồi con đi vãi mạ với ông nội.
Nhưng thằng Đậu không nghe tiếng ông nội đáp, ngoái đầu lại xem, cũng chẳng thấy ai, đám sậy sau lưng nó khi không lại rung rinh ào ào. Lạ quá! Trời đang đứng gió kia mà ? Rồi cả đám sậy phía bên nầy, phía bên kia và cả đám trước mặt nữa, cũng rung lên ! Cả rừng sậy đang ồn ào chuyển động. Thằng Đậu cố trấn tĩnh để xem kỹ là chuyện gì.
Bình tĩnh chớ sợ gì ? Thằng Đậu nhủ lòng, nó ráng ngồi lại. Trong tiếng động ồn ào lại phát ra tiếng chuột kêu tí tục vang rân. Chuột kéo đi đâu mà đông ghê gớm như vậy ? Hàng đàn hàng lũ xếp thành đội ngũ, tốp nhỏ đi trước, tốp lớn đi sau. Những con chuột cống nhum đen sì làm chỉ huy bước đi rập ràng, đánh nhịp “chít chóe, chít chóe”. Lại thêm lũ chuột già gù lưng đi sau chót, chúng vừa đi vừa thổi kèn khù khè, khù khẹt. Tất cả những “đội quân chuột” hướng thẳng về phía nền đám mạ của ông cháu thằng Đậu. Chuột tiến quân về phía đó để ăn thịt ông nội hay sao ? Thằng Đậu tự hỏi. Thuở đời nay cọp ăn thịt người chớ chuột nào có ăn thịt người bao giờ. Trừ khi xác người chết hoặc đang ngủ say chúng mới rình mà gặm nhấm tí chút thôi. Suy nghĩ một hồi thằng Đậu mới sực nhớ: “Đúng rồi ! Chuột đã đánh hơi có lúa giống đằng kia”.
Thằng Đậu ba chân bốn cẳng chạy bổ về chỗ ông nội đang vãi mạ để báo tin dữ. Đến nơi, Đậu mệt gần đứt hơi nhưng nó cũng ráng réo ông nội:
– Dừng tay lại, bớ ông nội !
Đằng ấy bác Ba Phi đang cặp nách chiếc thúng lúa và hốt giống vãi túa sua. Mắt ông sờ sệt, tai đã nghễnh ngãng rồi, có nghe thấy gì đâu. Nghĩ vậy, thằng Đậu bèn nhảy bổ tới giật tay ông nội, nó thét:
– Dừng lại, xem kìa!
Chừng ấy bác Ba Phi mới dừng tay lại móc túi lấy cây kiếng đeo lên mắt mà nhìn theo hướng tay thằng Đậu trỏ. Ôi thôi, giòng họ nhà chuột đã đứng xếp hàng đặc gật trên nền đám mạ tự bao giờ. Con nhỏ đứng trước, con lớn đứng sau đều trân tựa quân cờ xếp trong ô. Bác Ba vãi giống nãy giờ chỉ toi công. Không có một hột lúa rơi xuống tới mặt đất. Lũ chuột, con nào cũng với tư thế đứng hai chân, nhống người lên, một tay chắp sau đít, một tay đón bắt những hột lúa giống của bác Ba từ trên không. Những con chuột được mồi, cho vào miệng nhai nhóp nhép, trông mặt mày hớn hở. Tội cho những con chuột đứng xếp hàng phía sau, chưa tới lượt mình thì cụp râu, mặt mày buồn thiu…
Cả hai lần, ông cháu bác Ba quyết lòng gieo “gác” một đám mạ cho trúng móp môi nhưng đều bị chim và chuột phỗng tay trên. Thế là họ đành phải chuyển hướng, chờ mưa xuống ngập đồng sẽ gieo ngầm một đám mạ nữa cho mùa màng.
10- TÚP CHÒI QUAY.
Sẵn có tấm da con trâu bị quạ móc ăn thịt hôm nọ, ông cháu bác Ba Phi rọc ra làm pông- sô. Họ đốn một mớ cây cùng mang ra ruộng, để che một túp chòi ở giữ đám mạ. Bên cạnh nền đám mạ có một mô đất lớn, bác Ba dọn sạch cỏ, bảo thằng Đậu cắm cột. Xong buổi sáng, chiều lại, ông cháu bác Ba căng tấm da trâu lên lợp chòi. Ở xứ U Minh nầy người ta lợp chòi bằng rơm, bằng tranh, hoặc bằng lá chầm chớ có ai chơi sang như vầy. Thấy mình được ở chòi da thú, thằng Đậu hí hửng, ra vẻ tự hào:
– Ông cháu mình không thua dân Mông Cổ, hén ông nội !
Bác Ba lắc đầu:
– Du mục Mông Cổ người ta ở chòi biết đi, mình làm sao bằng ?
Thằng Đậu còn ức:
– Rồi đây con sẽ nghiên cứu cách cất chòi biết đi như họ cho nội coi.
Bác Ba Phi không tin, bảo Đậu ra ruộng làm nền đám mạ với bác. Trải qua hơn mười ngày, ông cháu bác Ba trèo trẹo vào việc làm đám mạ ngầm. Bước đầu phải be bờ “cơm nếp” bốn phía để chứa nước mưa và khi cần thiết cũng để tháo nước ra hoặc tát nước cho mạ. Làm nền xong, chờ hột lúa lên đủ ba càng, một mọng, thằng Đậu đi chặt cây sậy cắm thành từng hàng rò phân lối. Bác Ba xởi lúa giống để vãi. Giống vãi được một đêm, khi nước trong đám mạ lóng cặn đè phớt một lớp bùn trên hột lúa, họ mới xả nước ra còn độ xâm xấp mắt cá chân, giữ như vậy đúng ba hôm cho mầm giống lúa không bị ngộp nước, sau đó mới tát nước châm từ từ thêm vào.
Ban ngày làm đầu tắt mặt tối, ban đêm hai ông cháu bác Ba vô chòi nằm trên bộ vạt tre, kẻ ngủ, người thay canh, giựt sợi dây nối ra nhiều cái thùng thiếc cắm chung quanh đám mạ mà đuổi chim. Nào bòng bòng, vịt nước, le le kéo tới đáp xuống mò lúa giống rần rần. Giống chim này chờ trời vừa chạng vạng là từ các nơi bay đến, áp vô. Ông cháu bác Ba cứ mắt nhắm mắt mở, miệng la hơi hà, tay giật dây, cho những cái thùng ngoài kia khua lèng sèng sáng đêm. Nhờ vậy mà đám mạ của họ mỗi ngày một vươn lên như xúc giá đậu xanh, công việc canh giữ ngày một đỡ vất vả hơn.
Một buổi sáng, khi ngủ giật mình thức dậy, bác Ba Phi giật giọng gọi thằng Đậu:
– Này ! Dậy con ! Tại sao cái chòi của mình bữa nay quay mặt về phía mặt trời mọc ?
Thằng Đậu ngồi dậy dụi mắt xem:
– Hôm qua chòi của mình ở góc đám mạ bên kia, sao bữa nay ai khiêng đem đặt qua góc bên này ?
Bác Ba Phi không tin có điều kỳ lạ đó, móc túi lấy cây kiếng soi ra đeo lên mắt, xem kỹ. Bác vỗ tay lên trán à à mấy tiếng như cố nhớ ra điều gì, nhưng không nói thêm. Trong lúc thằng Đậu còn băn khoăn cái chuyện lạ đời nầy, bác Ba cứ tỉnh bơ ngồi vấn thuốc hút phun khói phì phèo.
Hút chưa tàn điếu thuốc, bác Ba chợt nghe bên mang tai mình nong nóng. Bác tự nghĩ: “Có lẽ nào mặt trời mới đó lại quay qua hông chòi ?”. Nhưng đến khi vấn điếu thuốc khác chưa kịp hút, bác Ba lại nghe hơi nóng ran phía sau lưng.
– Quái lạ ! Tại sao mặt trời cứ chạy vòng quanh cái chòi của mình như vậy, ông nội.
Thằng Đậu kêu hoảng lên, nhưng bác Ba trấn an cháu:
– Để bình tĩnh nghiên cứu, đừng la vội.
Hai ông cháu ngồi im trên bộ vạt tre cùng nhìn chăm chăm vào mặt trời buổi sáng đang chiếu ánh nắng vào chòi. Rõ ràng là mặt trời dường như sợ ông cháu bác Ba, nó cứ chầm chậm quay vòng quanh chòi, và ông cháu cứ quay người nhìn theo nó. Đang lúc bán tính bán nghi chưa hiểu là tại sao, thằng Đậu bỗng thét lên lần nữa:
– Cái đám mạ cũng chạy quay vòng quanh chòi nữa kìa, ông nội !
Bỏ mặt trời, bác Ba nhìn qua đám mạ. Thật là một cảnh tượng vô cùng khủng khiếp ! Cả mặt trời cùng đám mạ thi nhau chạy quanh cái chòi da trâu của ông cháu bác Ba. Bác Ba hoang mang vô cùng, chụp lấy cây búa để cạnh đầu vạt, nắm tay thằng Đậu lôi nhanh ra ruộng. Bác Ba vừa chạy vừa thét:
– Cả trời, cả đất cũng giỡn mặt ông cháu tôi, hãy xem đây !
Bác vung búa như định chém vào một vật nào đó, nhưng bị thằng Đậu nắm tay ghì xuống, trỏ vào túp chòi da trâu, bảo:
– Ông nội, hãy xem kia kìa !
Bác Ba Phi đưa tay sửa lại cây kiếng trên mắt, nhìn chăm vào túp chòi. Tại sao túp chòi biết cử động ? Túp chòi cứ loay hoay xê dịch hết hướng này sang hướng khác, cửa chòi cũng quay tròn theo. Không còn kềm chế được nữa, bác Ba xông tới định chém cho túp chòi một búa rồi ra sao thì ra. Nhưng vừa đến nơi bác vụt chựng lại, và kêu lên:
– À, té ra là vậy !…
Trong khi bác Ba thở ra một cái khì thì thằng Đậu vỗ tay reo cười ngặt nghẽo:
– Lâu nay ông cháu mình cất túp chòi trên cái mu con rùa. Con rùa cứ bò loay hoay làm cho túp chòi quay theo, chớ mặt trời với đám mạ nào biết quay bao giờ ?
Bác Ba cười ngả nghiêng theo thằng cháu…
11- CẶP TRÂU KHÔNG SỪNG.
Rõ ràng là thằng Đậu nói có lý. Bây giờ nó khỏi cần phải nghiên cứu cách cất chòi biết đi như bên nước Mông Cổ, từ nay về sau cứ nhằm trên mu con rùa mà cất thì không thua họ điểm nào cả. Hai ông cháu bác Ba cứ ở trên “túp chòi quay” ấy mà canh chừng đám mạ đến hơn một tuần lễ, mới tính chuyện cày đất để vào vụ mùa.
Nhiệm vụ của thằng Đậu là đến canh tư thức dậy cột đôi trâu vào ách rồi leo lên lưng một con nào đó nằm ngủ, còn về sau, phần dắt đôi trâu ra ruộng, đánh trâu kéo cày là của ông nội nó.
Một đêm, khi chùm sao cày gác lửng qua phía đầu rừng, bác Ba kêu thằng Đậu dậy mở niệt dắt trâu ra gác ách. Cái tuổi ham ăn ham ngủ, thằng Đậu sật sừ cầm đèn xuống chuồng trâu. Cây đèn cóc bị gió thổi tắt, nó phải mò mẫm làm việc âm thầm trong bóng tối. Đêm tối sệt ngửa bàn tay không thấy, thằng Đậu cứ đi lạc từ chuồng trâu qua chuồng heo, rồi từ chuồng heo trở về chuồng trâu đến mấy quận. Cuối cùng nó mở được cửa chuồng và gác ách một cặp trâu.
Nãy giờ làm việc gác ách trâu trong bóng tối thật là khó khăn vô cùng ! Bầy trâu trong chuồng không biết can cớ gì mà sút hết dây niệt, chạy lung tung hoài. Cả dây mũi của chúng cũng đứt đâu mất. Để khắc phục, thằng Đậu cứ cột quang lên đầu mỗi con một sợi dây vàm. Cho nên khi nắm được hai sợi dây vàm trâu từ tay thằng Đậu, bác Ba không nghi ngờ gì, cứ dắt đưa ra ruộng. Trên đường đi, bác Ba dắt trâu, thằng Đậu đi theo sau. Hai ông cháu lầm lũi đi dưới bầu trời đêm tối như mực.
Bữa nay ông cháu bác Ba Phi đánh trâu cày vạt đất cỏ chỉ. Thằng Đậu cầm dây vàm đi trước dẫn đường, bác Ba Phi lái cây chuôi phía sau, cày kiểu phá lỏi. Hai ông cháu thả một vạt vòng nông rộng độ nửa mẫu tây. Cặp trâu xem mòi sung sức lạ ! Bác Ba nghĩ: “Chắc hôm qua thằng Đậu cho trâu ăn đầy cỏ, nên con nào cũng óc nóc cái hông. Thằng nhỏ trông lù khù vậy chớ làm việc gì cũng tới nơi tới chốn”. Bác Ba vừa đánh trâu cày vừa khen thầm cháu nội. Những đường cày đất vỡ lật ngược trong đêm, mùi đất mới tỏa ra một thứ hương thơm làn lạt. Bác Ba Phi cứ lầm lũi đi theo hai con trâu của mình, và bác tin rằng phía trước đang có đứa cháu nội dắt mũi. Bác lái chuôi đẩy vạch đất thành những luống thẳng tắp.
Có gì thú vị hơn người thợ cày điều khiển cặp trâu, kéo cày vào buổi trời sắp sáng. Tiếng rừng U Minh thức giấc cựa mình rì rầm. Khí trời đêm man mác lạnh, gay gay niềm cảm khoái. Con chim mỏ nhác đâu đó giật mình vỗ cánh bay vụt âm thầm,vài chiếc sao rụng tua tủa những vệt sáng trắng rồi tắt phụt trên nền trời yên ả. Cảnh vắng lặng, hữu tình. Bác Ba Phi thủ thỉ ngâm mấy câu ca dao bằng một giọng trầm ấm:
“Trâu ơi, ta bảo trâu này
Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta…”
Gà trong xóm đã gáy rộ hiệp ba. Đằng đông có mấy vệt mây đòn xóc hiện lên đen ngòm trên bầu trời ửng nhạt. Cặp trâu của bác Ba bây giờ mỗi lúc một sút sức. Chúng đi ột ệt, bước ngắn bước dài, không còn hăng hái kéo cày như lúc mới ra đồng. Bác Ba cũng không biết tại sao ? Lúc ấy có một vật gì đánh rơi, văng xuống ruộng. Bác Ba giật sợi dây vàm, trâu hô:
– Pháo, Chim ! Dô…
Bác Ba huơ qua vài bận tìm gặp chiếc giàn thun của thằng Đậu. Có lẽ hồi chiều nầy thằng nhỏ đi nẹt chim đâu đó rối máng lên cần cổ, mang đi cày luôn. Bác Ba lượm chiếc nạng giàn thun bỏ vào túi áo, và bác gọi thằng Đậu. Qua ánh sáng hừng đông lờ mờ, bác Ba thấy nó đang nằm úp trên lưng một con trâu mà ngủ khò. Thấy thương nó quá, bác để cho nó nằm ngủ yên.
Tay trái bác Ba cầm cái chuôi cày, tay phải vung roi quất đánh đét vào mông một con trâu, hô:
– Ví vô Pháo !
Con trâu Pháo lồng lên, kéo chênh đầu ách bước tới ột ệt, đuôi nó nguấy nguấy. Qua ánh sáng bình minh, bác Ba thấy hai cái đuôi của cặp trâu sao cụt ngủn ? Chúng có mòi lười biếng không muốn bước. Bác Ba lại vung roi quất vào mông con trâu này, và hô:
– Thá ra, Chim !
Con trâu Chim cũng lồng lên một cái ột ệt, lại nguấy cái đuôi cụt ngủn. Hai con trâu vùng lên, bước tới chậm chạp. Chúng đã đuối sức dữ rồi. Tại sao hơi thở của chúng phát ra hồng hộc, chứ không phải phì phò như những cặp trâu thường ngày ?
Trời mỗi lúc một sáng, bác Ba Phi cứ vung roi quất vào mông trâu thúc chúng kéo cày. Bác quất vào con bên này, con trâu vọt lên kêu một tiếng “éc”. Bác quất vào mông con bên kia, con trâu cũng vùng lên kêu “éc, éc”. Bác Ba Phi quăng roi sững sờ đến mấy phút, và bật ngửa ra… Thôi rồi, thằng Đậu hồi hôm lợi dụng trời tối mà chơi trội ông nội nó ! Đậu gác ách vào cặp heo cho bác đánh ra ruộg cày, nó thì leo lên lưng heo nằm ngủ ngon lành.
Bác Ba Phi tức mình mở dây nài, dây ống cho cặp heo, thả chúng ra. Nhìn lại con heo vừa được thả ve vẩy hai tai, ngoắc đuôi ủi đất tìm thức ăn, bác Ba nổi dịch tống cho mỗi con một đá. Con heo đực đang chở thằng Đậu trên lưng nhảy lồng lên quăng thằng nhỏ té sải tay xuống ruộng. Hai con heo vừa tốc chạy vừa la éc éc. Thằng Đậu chưa rõ ất giáp gì, cứ dụi mắt ngơ ngác nhìn ông nội. Bác Ba chưa hết giận, trừng mắt quát:
– Ai bảo mầy gác ách cặp trâu không sừng làm lỡ dở buổi cày rồi?
Thằng Đậu thấy ông nội nổi giận, nó không biết chuyện gì vừa xảy ra, ba chân bốn cẳng phóng theo cặp heo chạy tuốt về nhà.
12- ƯƠM GIỐNG MẬN HỒNG ĐÀO VÀO THỊT NAI.
Quát mắng thằng cháu nội bác Ba cảm thấy cũng ân hận. Vừa đi bác vừa suy nghĩ: “Có thể vì đêm hôm tăm tối nó ba sớ ba sếch gác ách nhằm cặp heo thật, chớ không có ý chơi xỏ mình đâu. Heo nhà mình nuôi to quá cũng có thể lầm lẫn với trâu”. Bác Ba Phi cứ cúi đầu lầm lũi bước. Bác phải đến thăm đám mạ xem coi có loại gì quấy phá không. Mùa ruộng chỉ trông mong vào có đám mạ là phát súng lịnh xung phong cho mọi bước tiếp sau, mạ mà hỏng chỉ còn có nước bỏ mùa. Bác Ba Phi vừa đi vừa nghĩ hết chuyện này tới chuyện khác. Phía sau lưng mặt trời đã nhô lên khỏi rặng cây của đục vườn Đường Ranh. Nắng trải một lớp vàng bạc óng sánh xuống đồng cỏ.
Đến đám mạ, bác Ba ngớ người ra ! Cha nội nào chơi kỳ cục, đọt mạ xanh tốt lại đi lấy liềm cắt trụi tới cháng ba ? Bác Ba ức quá lẩm bẩm một mình, ước gì bắt gặp tên phá hoại bác sẽ dạy cho nó một mẻ nên thân. Thấy đám mạ bị hư hại chừng nào bác Ba càng giận run chừng nấy. Mẹ kiếp ! Cắt đọt mạ non còn quần nát đám mạ ra nữa, trên đời nầy có trò chơi nào mọi rợ hơn không ? Có chỗ mạ non, chẳng những bị cắt mà còn bị nhổ lên đứt củ hũ bỏ rơi trắng dã. Bác Ba Phi vuốt ve những chỗ mạ bị lướt và cầm mớ mạ bị nhổ lên xem. Thế này là thế nào ? Đôi mắt bác Ba chớp chớp ra vẻ suy đoán. Chốc sau bác gật đầu và thở khì một hơi dài. Đôi vai bác từ từ cụp xuống. Mẹ kiếp ! Cái bầy nai nầy thừa lúc bác mắc bận việc cày dở, ban đêm biệt kích đến phá hoại đám mạ của bác. Nhất định bác phải tìm cách trừng trị chúng một cú thật đích đáng !
Rời đám mạ, bác Ba đi lòng vòng một hồi đến cây mận hồng đào mọc ngoài mé rừng, ngồi nghỉ. Có một vật gì cồm cộm trong túi áo ? Bác Ba sờ thử. À, chiếc nạng giàn thun của thằng Đậu bác còn cất đây. Nạng giàn thun làm được gì với bầy nai nầy chớ ? Phải nghĩ ra cách nào chừng trị bầy nai phá đám mạ nầy. Những dấu hỏi lớn bằng lưỡi liềm cứ bỏ ngoắt ngoéo vào đầu bác Ba mỗi lúc một đậm. Đau đầu quá, bác ngẩng lên nhìn trời để tìm ra mưu kế. Nhưng trên trời cũng vẫn trống trơn, mây xanh lơ, nắng sáng bạc. Từng bầy chim giăng sen, cò quắm căng cánh bay qua, bay qua. Những chùm trái mận hồng đào chín mọng treo lơ lửng. Bác với tay hái mấy trái mận thật chín, bẻ đôi mà nhấm nháp. Mận ở xứ U Minh nầy tuy sai trái nhưng lạc nhách chẳng ra gì. Trên cành cây có mấy con chim vít cô nhảy hót líu lo. Cái mưu kế trừng trị nai ăn mạ của bác Ba chìm dần theo tiếng hót và cứ khép hẹp lại theo hai bờ mi của đôi mắt…
Trong cơn mơ màng, bác Ba vụt giật mình tỉnh dậy. Đâu đây có tiếng ai kêu nghe thảm thiết quá ! Dường như là tiếng kêu “má” thì phải. Mà lại nghe giọng trẻ con nữa. Bác Ba ngơ ngác nhìn quanh. Tiếng kêu từ trong lùm kia cất lên. Tiếng nai kêu ! Con nai nầy không phải kêu bằng ngôn ngữ thông thường của dòng họ nai. Nó kêu có ẩn ý, có tính chất báo hiệu một điều gì. Rõ là nó đang đánh tín hiệu cho nhau. Nhìn chăm vào lùm phát ra tiếng kêu, bác Ba thấy có hai vì sao sáng xanh, nhỏ xíu đang chiếu thẳng về phía bác. Con nai đang nhìn trộm bác. Chỗ Bác Ba ngồi đến chỗ con nai cách chưa đầy mười mét. Bác Ba Phi biết con nai nầy muốn hành động việc gì rồi. Nó trinh sát thực địa để dẫn đồng bọn đến ăn đám mạ non của bác, có lẽ tới đây đánh hơi thấy có người, nên dừng lại phát tín hiệu báo động cho lũ đi sau. Cho mày trinh sát nghe ! Bác Ba mắm môi, sẵn còn cầm hột mận trong tay bác lắp vào giàn thun, giương lên nẹt một phát vào ngay tam tinh con nai trinh sát. Bị một vố bất ngờ, con nai lãnh đủ, nó lồng lên la hét om sòm. Viên đạn bằng hột mận của bác Ba xuyên thủng lớp da mặt nai và mắc kẹt luôn bên trong. Lúc con nai quay đầu chạy, bác Ba nhanh tay lắp thêm hột mận nữa nẹt với theo. Hột mận thứ hai cũng xuyên thủng lớp da mông con nai và mắc kẹt vào trong. Bác Ba Phi đứng lên phủi tay và thét theo:
– Mẹ tổ mầy, cho trinh sát nghen ! Tao ươm hột mận hồng đào vào người mầy cho nhớ đời.
13- CÓ BẦY NAI KHÔNG BAO GIỜ KÊU.
trên đường về nhà, bác Ba Phi cứ suy nghĩ nát óc để tìm cách trừng trị bầy nai phá đám mạ, vẫn chưa ra kế. Chiều hôm ấy bác cứ nằm gác tay qua trán trăn trở hoài và lặng thinh không chịu nói năng gì tới thằng Đậu. Thằng Đậu rất băn khoăn, nó đinh ninh là hồi hôm mình gác ách nhằm cặp heo cho ông nội đi cày, nên bị ông nội giận dai vậy.
– Con lỡ vô ý, ông nội đừng giận nữa – Thằng Đậu thủ thỉ với ông – Ông nghĩ coi, ban đêm mập mờ, heo với trâu con nào cũng bằng nhau, dễ lầm lắm.
Thằng Đậu hiểu lầm về ông nội. Thấy thằng cháu băn khoăn, bác Ba ngồi dậy xoa đầu nó, cười xòa:
– Đầu óc ông đang tập trung nghĩ cách trị cho bầy nai không dám bén mảng đến ăn đám mạ của mình nữa.
– Chỉ có vậy thôi sao ? Thằng Đậu bật cười. Té ra từ sáng tới giờ ông nội nó nằm dàu dàu là chuyện ấy. Nó ngước mặt cười và trêu ông nội:
– Tưởng gì, chớ có vậy ! Muốn nai không ăn mạ được nữa thì cứ bắt mỗi con cắt bỏ một cái lưỡi, là êm ru.
Bác Ba bật cười ha hả:
– Phải chi bắt chúng được thì xẻ thịt bán lấy tiền, dại gì phải cắt lưỡi rồi thả đi ?
Nhưng tiếng cười của bác Ba bỗng im bặt. Thằng nhỏ nói giỡn vậy mà có lý. Vịn từ cái ý của nó bác Ba đã nghĩ ra một kế hay…
Sau bữa cơm, không nói không rằng, bác Ba mài cây mác vót thật bén, chặt trúc từng đoạn rồi chẻ cật trúc ra, tước xéo cho mảnh trúc bén tựa lưỡi lam. Vừa làm bác Ba vừa lẩm bẩm một mình: “Cho tụi mầy sống trên đời mà không cất tiếng kêu được gì”. Thấy ông nội cứ làm thinh hoài, thằng Đậu cầm một mảnh trúc đưa lên:
– Đố ông nội dám cắn mảnh trúc này vào miệng, kéo mạnh ra một cái.
Bác Ba nghe ghê răng, rụt cổ, rùng mình, vội buông cây mác, đưa tay bụm hai hàm lợi:
– Cái thằng, nói nghe ê răng thấy mồ.
Làm xong, ông cháu bác Ba dùng chiếc bao bố quấn mảnh trúc, vác ra đồng.
Đến đám mạ, bác Ba bảo:
– Mầy ngồi đây để ông “khoáng bùa” trị ba con nai nầy.
Bác Ba ôm bó trúc lội vô đám mạ cắm rải rác đều khắp. Bác cắm thật chắc xuống đất, chỉ để đầu bén của mảnh trúc lấp ló ngang tầm đọt mạ. Làm xong xuôi đâu đó, hai ông cháu dắt nhau về nhà.
Đêm ấy thằng Đậu thức đến hết canh ba mà vẫn trăn trở hoài. Nó luôn nghĩ về một công việc huyền bí của ông nội làm hồi chiều. Ông làm cái việc xem như trò chơi lại gọi là “khoáng bùa” ? Khoáng bùa gì không thấy dùng giấy quyến vẽ mực tàu vào ? Khoáng bùa sao không thấy ông nội thổi phì phèo, đọc thần chú lảm nhảm như các ông thầy pháp chữa bệnh ăn heo của nhà người đau ? Ông nội cầm từng mảnh trúc lội đi cắm êm ru, vậy mà cũng gọi là khoáng bùa ? Nó đã từng thấy người ta bảo khoáng bùa trị ma quỷ, ai đời ông nội lại đi khoáng bùa trị nai ăn mạ !… Và rồi những ý nghĩ lang bang của thằng Đậu chìm dần vào giấc ngủ…
– Dậy ! Dậy, Đậu ơi !
Hồi đầu hôm thao thức mãi nên thằng Đậu đánh một giấc tới mặt trời mọc xỏ lỗ tai. Dở mùng phóng xuống đất, đứng dụi mắt, thằng Đậu thấy ông nội sắp sẵn hai cái thúng. Thằng Đậu nhỏ, cầm cái thúng táo, bác Ba cầm cái thúng giạ, hai ông cháu hướng thẳng ra đám mạ.
Nắng buổi sáng chiếu vàng trong trẻo theo sau lưng. Thằng Đậu thấy cánh đồng ruộng ven rừng U Minh đẹp mắt làm sao ! Kìa, những cây tràm tàn dù đội nắng đứng nghiêng nghiêng. Kìa, rừng tràm bạt ngàn xống ngọn lên hứng nắng, trông cây nào cũng nhuốm màu vàng ruộm tựa một rừng san hô. Ngọn cỏ bắp thâm thấp, nhọn nhọn và trơn mát lướt lui dưới bước chân thằng Đậu. Mấy cây điên điển đồng giăng đầy màng nhện đọng trắng hơi sương lấp lánh.
Ông cháu bác Ba đã đi đến đám mạ. Bác còn ngồi khề khà trên bờ cơm nếp, hết vấn thuốc hút, lại se khăn bịt khấc quanh đầu. Thằng Đậu đang nôn nóng trong bụng mà ông nội cứ rề rà hoài, nó thấy phát nổi bực.
Hút thuốc xong, bác Ba Phi từ từ bước xuống đám mạ. Sau một hồi xem xét kỹ lưỡng. Bác Ba gật đầu như thỏa mãn một điều gì, bác bảo thằng Đậu bưng thúng đi theo từng hàng mảnh trúc bác cắm hôm qua.
– Nhìn kỹ nghe con ! Kẻo đá xước vào mảnh trúc bị nó rọc bàn chân chẻ làm hai đa.
Bác Ba men lại chỗ mảnh trúc cặm, lượm lên một vật gì, rồi ngoắc thằng Đậu lại:
– Nhẹ chân ! Đến đây !
– Cái gì vậy ? Ơ, một miếng thịt nai còn tươi rói.
Thằng Đậu kêu lên sửng sốt. Bác Ba giải thích cho cháu nội biết:
– Tìm chỗ mảnh trúc cắm là có một khúc lưỡi nai nằm ngay tại gốc, lượm bỏ vào thúng bưng về.
Thằng Đậu bây giờ mới hiểu được câu chuyện bí mật của ông nội. Có lạ lùng gì ! Mảnh trúc bén cắm lẫn trong mạ non, nai kéo vào ăn, huơ lưỡi cuốn mạ cuốn luôn mảnh trúc vào miệng, giật mạnh, thế là mảnh trúc cắt tiện một khúc lưỡi rơi lại.
Hai ông cháu tìm đủ một trăm tám mươi hai mảnh trúc cắm trong mạ, mò dưới gốc mảnh nào cũng có một cái lưỡi nai nằm lại tại chỗ. Ông cháu bác Ba lượm đầy hai thúng thịt lưỡi nai đội về.
14- TRỜI SANH XƯƠNG SỐNG HEO RỪNG NGAY ĐƠ NHƯ CÁN CUỐC.
– Sẵn đường ông cháu mình tạt qua thăm rẫy khoai, Đậu ạ !
Tuy đội thúng thịt nai nặng trịch, thằng Đậu vẫn đi theo ông nội. Hai ông cháu đi quẹo về hướng Lung Tràm. Ở đó bác Ba có cuốc mười công rẫy vừa khoai lang, vừa khoai môn, xuống giống hơn tháng nay, khoai lên rất tốt.
Ông cháu bác Ba lội qua một con lung lầy rồi đến một vùng đất trấp mới khai phá. Đất mùn xốp, đen như than dày một lớp, chân bước cứ phập phều tựa đi trên tấm nệm muốt.
Đến mấy bụi khoai môn trồng ở đầu rẫy, thằng Đậu giật mình ngơ ngẩn. Nó để thúng thịt nai xuống, ngồi lại xem. Đậu cứ mê mẩn, nhìn những bụi khoai môn. Lá môn xanh lặc lìa có núm đỏ chính giữa, lá nào lá nấy ngắt thả ngửa xuống sông, cầm sào nhảy xuống chống qua được.
– Tổ mẹ ba con heo rừng…
Bác Ba Phi kêu lớn ở đằng kia làm thằng Đậu giật mình. Nó đội thúng thịt lưỡi nai nhảy phóng qua con mương óng, chạy rút đến ông nội. Theo tay bác Ba chỉ, thằng Đậu thấy đám rẫy khoai lang bị heo rừng ăn lâm nhâm đều khắp. Khoai mới xuống củ mắc mớ chi lũ heo cũng đến ủi phá ? Thằng Đậu nổi dóa, nó bảo ông nội:
– Mình cho bầy heo nầy không còn lưỡi để kêu như lũ nai kia đi, ông nội!
Bác Ba không phải ngây thơ như thằng cháu nội. Loài heo rừng không phải dùng lưỡi để cuốn thức ăn vào miệng như nai, chúng có đặc điểm khác. Heo rừng tìm thức ăn bằng cách đánh hơi đường mũi, dùng mỏ ủi bươi lên. Có khi con heo ủi đất tìm thức ăn, thân lút ngập, chỉ còn có cái đuôi ló lên. Bác Ba sắp đặt kế hoạch trong bụng, trừng trị lũ heo rừng này nhưng chưa nói ra với thằng Đậu…
Chiều hôm ấy nhà bác Ba Phi mở tiệc linh đình. Bác Ba mời bà con lối xóm đến nhậu chơi một bữa thịt lưỡi nai. Thói thường ở đời hễ rượu vào thì lời ra. Vào tiệc nhâm nhi mấy cốc, khách “dậy giặc” với nhau:
– Ông ba Phi chơi cái kiểu này thật là tàn ác, người ta có cái lưỡi để uốn éo chữa mình, lại thiến đi.
– Cuộc đời chỉ có cái lưỡi là đồ ăn hại nhất. Lưỡi hay khoác lác, lưỡi hay xu nịnh, lưỡi hay nạt nộ, lưỡi hay hăm dọa, lưỡi hay xuyên tạc sự thật. Chẳng thà cắt mẹ nó làm mồi nhậu sướng hơn.
– Đừng nói giỡn các cha. Có cái lưỡi nói dóc như ông chủ nhà đây cũng nổi tiếng cả nước, nào thua một nghệ sĩ lớn.
Cả đám vỗ tay cười rộ lên, làm bác Ba đỏ mặt. Bị chạm nọc, bác Ba thét lên giữa bàn tiệc:
– Đồ tốn rau, hao nước mắm ! Các người khỏi dạy đời.
Nói xong bác Ba bỏ đi xuống nhà bếp. Thấy bác gái còn thái thịt lưỡi nai xào lá cách, vắt nước cốt dừa để rội thêm cho khách nhậu, bác Ba hầm hầm bưng chảo thịt hắt xuống mương. Hai quai chảo bị lửa hun nóng quá làm những đầu ngón tay bác Ba sắp bỏng, bác vội bóp vào hai bên trái tai mình cho đỡ. Nào ngờ lọ nghẹ dính trên đầu ngón tay, bệt vào mặt bác nhiều kẻ sọc tèm lem. Cả nhà bác Ba, ai cũng bò lăn ra cười. Thấy mọi người cứ cười một cách vô duyên. Bác Ba Phi càng nổi dóa, quát:
– Thà đổ xuống mương nuôi cá có ích hơn để tụi bây ăn nhậu rồi ngạo đời.
Nhưng người ta vẫn không giận và cứ cười. Có người lại vỗ tay reo lên:
– Hoan hô ! Gánh hát chưa tới mà thằng hề đã tới.
Bác Ba Phi lớ ngớ không hiểu chuyện gì. Một người cất tiếng nói sang chuyện khác:
– Nói dóc mà được nổi tiếng không phải ai muốn nói cũng được. Đừng tự ái bỏ cuộc mà làm hư bột hư đường cái sự nghiệp lớn của mình, bác Ba ơi !
Bác Ba Phi chưng hửng, vụt bật cười theo:
– Ừ, ờ… vậy sao ?
Lúc ấy thằng Đậu cầm một tấm gương soi mặt, chạy tới đưa cho ông nội:
– Ông nội nhìn vô kiếng coi ai ở trỏng !
Bác Ba soi gương thấy mặt mày mình dính đầy lọ nghẹ, liền ném gương, cười chảy nước mắt.
Rửa mặt xong, ra giữa đám nhậu bác Ba Phi tuyên bố;
– Ngày mai mời bà con ăn tiếp thịt heo rừng giúp tôi với nghe ! Chia tiền mặt cũng được, chia lúa mùa cũng được. Tôi còn phải ra sông Đốc kêu lái vô chở đi tiêu thụ bớt.
Nghe bác Ba nói, khách khứa dòm nhau chưa ai tin là sự thật.
Khách về, bác Ba Phi lấy cây mác cán dài có ba khâu yếm ra ngồi mài cho tới tối. Vừa mài bác vừa đưa ngón tay trỏ lên cào cào qua mép lưỡi mác để thăm chừng độ bén. Chốc chốc bác vén ống quần lên, đưa lưỡi mác cạo một cái đứt ngọt một cuộn lông chân. Nhưng dường như cũng chưa đạt yêu cầu, bác Ba cứ mài cho đến khi để một sợi tóc nằm ngang trên lưỡi mác, thổi nhẹ là sợi tóc đứt làm hai, mới chịu thôi. Bác lấy giẻ lau khô lưỡi mác, rồi dùng dầu dừa thoa sương qua một lớp chống sét.
Đầu canh năm bác Ba Phi thức dậy, đâm một chén củ tỏi khuấy loãng rưới đều vào quần áo và xoa vào nách, vào cổ. Xong đâu đó bác bảo thằng Đậu cũng làm như vậy. Giống heo rừng thính mũi lắm, chỉ có xoa nước tỏi chúng mới không đánh được hơi người. Làm xong, bác Ba Phi cầm cây mác cán dài, thằng Đậu cắp cây giáo nhỏ xíu, hai ông cháu lội băng băng ra hướng đám rẫy khoai.
Đến nơi, hai ông cháu bác Ba tìm chỗ kín ngồi núp, để lắng nghe động tịnh. Hôm nay sao bốn bề lặng trang ? Có lẽ hồi sáng bác chỉ hăm he có mấy tiếng mà Thần Vòng báo động cho lũ heo trốn hết ? Bác Ba Phi không bao giờ tin dị đoan. Ở miệt rừng nầy, mười người thợ rừng đều tin chuyện hoang đường ấy hết tám. Họ bảo rằng heo rừng có cô hồn phò trợ nên chúng có linh tính lạ thường ! Thí dụ như trên một con đường heo tới lui nhẵn đất, bất ngờ có ai đến đặt bẫy hoặc ngồi rình để bắn, tức thì Thần Vòng báo cho chúng dạt ngay, đổ đường khác mà đi. Có người còn bảo vạn săn nào vào buổi xuất hành đầu năm, không có cúng tế Thần Vòng thì suốt mùa đừng mong bắt được một con heo. Thần Vòng là vong hồn của bà Thị Cư, một người con gái đã từng chinh phục cọp rừng ở U Minh này ! Nhưng chẳng may một lần Cư sơ suất bị một thần hổ giết chết, hồn thiên hóa thành một vị thần chăn giữ các bầy heo rừng trong một xứ. Những vạn săn không cúng vái bà, giăng giò, đánh bẫy tới đâu đều nghe bà cất tiếng kêu lảnh lót để ven heo của mình đi dạt nơi khác mà tránh nguy hiểm…
Mặc cho muỗi rừng U Minh bu cắn phải vuốt, bác Ba Phi cùng thằng Đậu kiên trì ngồi đợi. Bác không tin Thần Vòng và cũng không bao giờ chịu cho là giống heo rừng có linh tính. Chẳng qua chúng có cái bản năng đặc biệt là sáng hơi và thính tai thôi. Nếu hôm nay thất bại bác sẽ ăn sao, nói sao với những người đã ghi tên vào sổ mua thịt heo rừng của bác hôm qua ? Lại càng khó nói hơn là bác đã kêu hàng chục “chú ị” mổ heo hàng xáo ngoài chợ sông Đốc vào, buổi sáng này cân ba mươi con heo đứng. Bác Ba Phi đã chắc ăn như ghịt, không lẽ thời vận “bẻ chĩa” bác hay sao ? Cứ bình tĩnh chờ xem !
Thằng Đậu ngồi sau lưng ông nội, cứ ngủ gà ngủ gật. Cuối cùng nó ngằm ngoẻo xuống đám cỏ, ngáy đều đều. Bác Ba thấy thương cháu quá, lột chiếc áo vắt bên vai, đắp thêm cho nó ấm và đỡ muỗi cắn. Chiếc sao mai đã lên hơn một con sào. Chân trời phía đông hơi ửng hồng báo hiệu đêm sắp hết. Từng vệt mây đâm ngang lộ ra tựa những cây đòn xóc đen nằm dài. Bây giờ thì không còn chờ đợi được nữa, quả quyết là bầy heo rừng đã đánh hơi người nên chém vè lại, hoãn cuộc đào bới này rồi. Nghĩ vậy, bác Ba mọp người xuống nhìn ngang qua mặt rẫy khoai một lần chót để xuống mối chắc chắn qua một đêm mất công toi. Rảo mắt qua một lượt thật kỹ, bác Ba chợt giật mình ! Qua ánh sáng mập mờ của buổi bình minh, bác thấy ở vạt rẫy khoai tại sao đêm nay mọc lên nhiều gốc củi lụt lô nhô, lớn có, nhỏ có ? Những chiếc gốc nhỏ cỡ đầu chày giã gạo, những gốc lớn cỡ một ôm. Đám rẫy trước khi vỡ đất đã cạy dọn sạch sẽ đến một nhánh chà cũng không còn, tại sao đêm nay ai khiêng củi đến để đặc gật thế nầy ? Bác Ba ức lắm, để thằng Đậu nằm lại bác cầm cây mác dài, mon men lại xem thử. Đi được mười mét, bác Ba vội dừng lại. Mỗi gốc củi lụt sao lại có gắn một cọng bông lau làm dấu ? Những cọng bông tín hiệu cứ lất phất trước mặt bác Ba trong ánh sáng tản mạn của một đêm sắp tàn. Bác Ba Phi rón rén bước nhẹ đếm một gốc củi gần nhất, đưa tay sờ thử cọng bông lau. Trời đất ! Cọng bông lau biết nguẩy qua nguẩy lại. Bác Ba chụp lại thử xem. Cọng bông lau cắm trên gốc củi lụt như bực bội giựt lia lịa. Và bác Ba nghe bên dưới gốc củi có tiếng ịt ịt phát ra tựa có heo kêu. Bác Ba nắm giật mạnh, cọng bông lau vùng vắng và giật mạnh. Bác Ba Phi đã hiểu ra đây là cái gì rồi ! Máu trong cơ thể tràn lên một cái rần muốn đứng tim, bác phải đưa tay bợ ngực. Bác Ba nói thầm:
– Tổ cha lũ heo ! Ủi chi ủi lút nửa con xuống đất.
Nói xong, bác Ba kê lưỡi mác cứa một nhát phớt qua giữa lưng con heo. Và cứ thế, như một con kỳ đà, bác Ba nhẹ nhàng đi tới một con heo khác, cứa phớt lưỡi mác vào lưng một cái. Lưỡi mác bác Ba bén như nước, từng nhát cứa qua ngọt sớt lớp da lưng heo, không một con nào hay biết gì.
Bác Ba cứ cứa đứt da lưng hết tất cả những con heo rừng ủi rẫy khoai, rồi bò trở lại bên thằng Đậu. Bác thấy nó còn nằm chò co, ngủ ngáy khò khò, bác nắm chân nó giật giật, gọi dậy. Thằng Đậu say ngủ, giật mình chới với. Trong giấc mơ nó thấy đang tả xung hữu đột với một bầy heo rừng, nên nó lấy cây dáo chĩa ngay vào ngực bác Ba, thét lớn:
– Heo rừng !
Tiếng thét của thằng Đậu vừa bật ra, bầy heo rừng đang ủi phá đám rẫy chợt giật mình lồng lên và kêu “Hồ… ộc ! Hồ… ộc” vang dội cả một vùng. Tiếp theo đó là tiếng “cụp, cụp, cụp…” nghe đều cả một đám rẫy.
Còn đằng này, bị thằng Đậu phản ứng bất ngờ, bác Ba giật mình vung mác lên đỡ lấy mũi dáo của nó. Bác nói hổn hển:
– Ông nội đây ! Ông đã cứa đứt da lưng gần trăm con heo.
Thằng Đậu nghe ông nội báo mừng quá, nó nắm tay ông lôi lả đến chỗ bầy heo. Ơi là trời ! Heo rừng lớp lớn, lớp nhỏ không biết tại sao gãy cúp xương sống hết thảy, nằm làng khang trên mặt rẫy tựa cùi đòn. Đứng xem một chút, thằng Đậu ném dáo chống nạnh, lắc đầu thở ra:
– Ông nội làm thế này thì chỉ có môn đem ghe chài vô mà chở.
Bác Ba cười bảo:
– Yên chí ! Hai ông cháu mình nắm đuôi lôi chúng bỏ xuống mương ống.
Thằng Đậu lại cằn nhằn:
– Có bỏ thì bỏ mẹ ở đây, còn lôi lả đi đâu cho mệt ?
– Cái thằng đại ngốc. Mình làm theo kiểu dân Bến Tre thọc dừa khô vậy. Lôi chúng bỏ xuống mương ống, ra tháo nước đập, rút ống bọng, nước xổ ra, chừng đó heo sẽ trôi đùn về tận nhà, mặc sức mà lôi lên.
Nghe ông nội nói phải, thằng Đậu cùng ông lôi những con heo rừng, vòng theo những mương khoai kéo ra mương ống.
Vừa làm thằng Đậu vừa hỏi ông nội:
– Tại sao mỗi con heo ông nội chỉ cứa có một nhát dao vào lớp da lưng vậy ?
Bác Ba giải thích:
– Trời sanh giống heo rừng xương sống ngay đơ như cán cuốc. Muốn bắt chúng khỏi phải tốn nhiều sức, ta chỉ cần nhá một nhát dao vừa đứt lớp da lưng, rồi nạt lên một tiếng cho chúng giật mình, nhảy dựng lên, cụp đốt xương sống, nằm tại trận.
15- CÓ ĐI CÓ LẠI.
Mấy chú Chệt lái heo ngoài chợ sông Đốc đã hợp đồng chặt chẽ với bác Ba Phi, nhưng đến khi đem heo về họ lại “phản phé”, chẳng có một mống nào chạy máy đuôi tôm vô cân. Ức quá, ngày sau bác Ba quá giang xuồng máy thiếm Tư ra tận nơi hỏi cho ra lẽ.
Trước lúc ra đi thằng Đậu còn theo tận mé sông, cằn nhằn ông nội:
– Con đã bảo tin Chệt lái heo như dê tin cọp vậy, ông nội cũng không nghe.
Nghe Đậu nói, bác Ba thấy ân hận, càng căm giận vô cùng. Bởi vậy vừa tới, bác làm ra vẻ hầm hừ, cự nự liền:
– Tại sao mấy nị thất hứa với ngộ vậy ?
Bác Ba suy nghĩ: “Mấy chú Chệt nầy nói dóc với mình chẳng khác múa rìu qua mắt thợ. Chạm vào tổ sư rồi, đố chạy trời cho khỏi nắng. Bác phải chơi lại một vố cho cay, cho lũ nhóc con mở mắt biết ai là bậc thầy”. Bác nghĩ vậy nên thay đổi thái độ.
Bác Ba tươi cười bảo mấy chú lái heo:
– Heo rừng cân sợ lỗ thì cân heo nhà vậy. Heo của tôi vừa lứa xuất chuồng có độ vài ba mươi con. Nhân dịp các nị vô cân, tôi bảo bà con lối xóm cùng bán thêm vài chục con nữa. Họ cử tôi ra kêu các nị… Nếu không, tôi đi luôn Cà Mau kêu công-xi vô cân, chừng đó đừng có ức.
Nghe bác Ba bảo xóm Kinh Ngang có heo xuất chuồng độ trăm tấn, mấy chú lái mừng quýnh, ánh mắt người nào cũng sáng rực.
Mặc dù mặt trời đã xế dài và đang chuyển mưa họ cũng í ới gọi nhau sửa soạn dụng cụ, châm dầu, tát nước vỏ để vào Kinh Ngang quyết chơi phỗng tay trên đám lái công-xi Cà Mau. Và rồi trời lại đổ mưa. Bác Ba giả bộ lạnh, bảo ở lại sáng mới về. Mấy chú lái hoảng hốt năn nỉ xí xố, bảo thế nào bác cũng ngồi vỏ dẫn họ về ngay trong chiều nay.
Họ chạy tất bật lo chuyến đi nhanh chóng, và tìm áo mưa trùm cho bác Ba. Nhìn họ làm hào hển không dám nghỉ mệt, bác Ba thỉnh thoảng quay ra ngoài cười một cách đắc ý.
Chốc sau, con đường từ vàm Rạch Lùm chạy lên Kinh Ngang người ta thấy có ba chiếc máy “tắc ráng” nối đuôi nhau chạy phun khói xanh. Những lượn sóng cuộn lên vạch thành từng mũi tên bung rộng trườn vào bờ, xô vào những hang hốc kêu xoàm xoạp. Chiếc vỏ máy cuối cùng có bác Ba Phi ngồi giữa, chân tréo ngoảy, hút thuốc phì phèo. Bác cứ nhìn vào những bà con hai bên bờ, miệng tủm tỉm cười hoài.
Qua chỗ kiếng đập, cua quẹo Rạch Lùm, bác Ba trỏ tay vào bờ chỉ cho mấy chú lái xem và bảo:
– Mấy nị chơi xạo vô cùng. Đã hợp đồng lại tự ý bỏ, làm tụi tui phải quăng thịt heo rừng trôi đặc sông như vậy đó.
Mấy chú lái liếc nhìn những mảng thịt heo rừng trôi dập dềnh trên sóng tựa những dề xăng đặc mà lấy làm xấu hổ, không dám ngó lên. Bác Ba cười gằn:
– Ở đời có tin cậy nhau không là kiểm qua việc đối xử, còn chơi xỏ nhau, điều ấy hử, ai dễ thua ai ? Các nị chỏi mắt mà xem sự đời sẽ có đi có lại.
Mấy chú Chệt lái heo chẳng nói gì, cứ gầm mặt, lên ga máy vọt tới tới. bây giờ trước mắt họ là những con heo mập ú sắp xuất chuồng của bác Ba cùng bà con Kinh Ngang, rồi đây hàng loạt heo sẽ được vào bội, sẽ được xuống vỏ máy, rồi sẽ đưa lên vựa Chánh Hưng và rồi cùng hàng loạt xấp tiền thẳng rang, thơm phức thi nhau chui vào nặng trịch cái hành thầu của các nị…
Những chiếc vỏ máy chạy tới cửa nhà bác Ba Phi, rướn mũi lên bờ. Ba con người lực lưỡng cầm vòng bắt heo đi lên trước, một ông già đầu bịt khăn khấc, hút thuốc phì phèo, cằm lưa thưa râu bắp thủng thỉnh theo sau. Vô gần tới cửa nhà các “chú ị” xí xô xí xào:
– Pà Pa đi đâu vắng rồi ông Pa ?
Bác Ba Phi làm như không nghe câu hỏi của họ. Trong lúc họ còn đứng nhí nhố ngoài hàng ba, bác tiến lên, bước vào trong, hắng giọng:
– Đậu a ! Ra biểu đây.
Thằng Đậu chạy ra, nhe hàm răng trắng muốt cười, nhìn ông nội. Bác Ba nháy mắt ra ý cho đứa cháu nội, rồi thản nhiên trao đổi công chuyện nhà với nó:
– Mấy chí lái này đưa ông nội về để cân mười con heo đúng lứa xuất chuồng của mình. Bà nội đâu, bảo xúc cám cho heo ăn để rồi cân !
Thằng Đậu hiểu ý ông nội, nó vỗ tay đánh đốp làm ra vẻ sửng sốt, nhìn vào ông rồi chuyển sang nhìn mấy chú lái, kêu lên:
– Chết rồi !
– Chết cái gì ?
– Nguy rồi !
– Nguy làm sao ?
– Tại ông nội không dặn…
– Dặn cái gì ?
– Dặn bà nội ở nhà đừng bán heo.
– Rồi sao nữa ?
– Nên bà nội không biết, bán hết cho mấy chú ngoài Rạch Ráng rồi chớ sao ? Bà nội đi theo ra ngoài đó lấy tiền chưa về.
Bác Ba ra vẻ nổi giận, chồm tới nắm ngực thằng Đậu gầm lên:
– Bà cháu mầy hại tao rồi ! Bây giờ tao phải ăn nói sao với mấy chú lái đây ?
Mấy chú lái heo sông Đốc đứng theo dõi cuộc nói chuyện của hai ông cháu bác Ba mà đực người ra, lắc đầu hỡi ơi ! Mặt mày chú nào cũng đắng nghét. Bác Ba uể oải ném tàn điếu thuốc, thở ra, quay sang phân trần với mấy chú lái:
– Các nị coi, bà cháu nó cho tôi leo cây như vậy đó !
Mấy chú lái xí xố phàn nàn:
– Ông Pa chơi zầy kẹt tụi tui quá xá !
Bác Ba thở ra, nói nửa úp nửa mở:
– Cũng tại các nị không biết kiêng cử, chạm vào tổ sư của nghề nói dóc. Chuyện đời… có đi có lại thôi.
Chờ mấy chú lái heo đi rồi, bác Ba ôm thằng Đậu vào lòng, mắng yêu:
– Mồ tổ cha mầy ! Nhanh trí ứng phó tuyệt vời như vậy là nối dòng ông nội được rồi đó con ạ.
Thằng Đậu được ông nội khen vừa khoái chí cũng vừa mắc cỡ, gỡ tuột tay ông chạy ra ngoài. Đậu nhảy tung tăng xuống nhà dưới, nói lui:
– Với mấy thằng cha Chệt lái heo xỏ lá đó phải “chơi đẹp” như vậy mới vừa, chớ ông nội !
Bác Ba hỏi với theo:
– Bà nội mầy đi đâu, hở Đậu ?
– Thấy trời đổ mưa, bà nội đi kêu công nhổ mạ để mai cấy cho kịp lứa.
Bác Ba vuốt râu cười hà hà tỏ vẻ rất hài lòng, ngồi gật gù nói một mình:
– Cháu cũng như bà, thật là những con người hết sức linh hoạt !
Nói xong, bác Ba bước ra ngoài cửa, đi đến xóm ngoài, dặn lui lại cho thằng Đậu ở nhà:
– Bà nội về bảo ngâm nếp khuya xôi cho người ta ăn cấy, nghe Đậu ! Ông nội đi kêu công cấy một bữa cho xong một chục công lúa sa-mo nầy.
16- LÚA NỞ NGẦM.
Cấy xong một chục công lúa sa-mo trời cứ đổ mưa hoài, làm cho bác Ba Phi ngồi khoanh tay rầu rĩ. Bác cứ nhấp nha, nhấp nhổm, uống trà, đi ra hàng ba đứng treo tay nhìn những cơn mưa mờ mịt ruộng đồng, rồi trở vô ngồi vấn thuốc hút, uống trà. Thật là sống ở thời buổi nầy một khi bị tai nạn thiên nhiên giáng xuống thì sức người đành vô phương khả đảo. Đêm nằm trăn trở lắng nghe từng cơn mưa rơi lộp độp trên mái lá mà bác Ba cứ thở vắn than dài ! Bác hay lặp đi lặp lại với bác gái cùng thằng Đậu một câu:
– Từ hôm xuống nọc cấy đến nay tính đã… Ơi, sao mưa mãi là mưa ! Cái điệu nầy chắc “bà Thủy cắt hộ tịch” mười công lúa sa-mo của mình rồi.
Nhưng từ sau cái đêm than thở não nuột của bác Ba, dường như động lòng trời, sáng ra có mây ráng đỏ chen vào giữa buổi bình minh. Triệu chứng này báo hiệu cho một ngày quang đãng. Quả như vậy. Mặt trời ló dạng vàng óng như chiếc mâm thau được chùi thuốc tẩy, chiếu ra nhiều tia sáng kỳ diệu. Chim chìa vôi cất tiếng hót líu lo ngoài tàn cây xoài. Những con cúm núm lai gà tàu ở đầu bờ ruộng gù lên hai giọng: “ò ó o… ò, cúm núm, cúm !…” Và con bò lai nai nửa tháng trời bị thằng Đậu niệt miết trong chuồng cho ăn toàn những rơm khô, bây giờ thấy trời ấm áp, nghếch cái đầu có chà gạc lên, nhìn đám cỏ non bên ngoài bằng cặp mắt trong veo, thèm thuồng rồi cất tiếng rống như mừng rỡ: “Uïm bò ! Bét, bét !”. Mặt trời càng lên cao, những tia nắng sớm càng soi óng ánh qua từng kẽ lá trong khu vườn cây tổng hợp của bác Ba Phi.
– Nắng hồng tươi soi bóng các em đến trường…”
Trong lúc bác Ba Phi lắc nước chiếc xuồng ba lá sau mương, để chuẩn bị đi thăm ruộng, thằng Đậu trong nhà cứ ca hát và nhảy nhót tựa con chim trao trảo.
– Đậu à ! Sửa soạn đi thăm ruộng với ông nội !
Nghe ông nội kêu, thằng Đậu vội lấy chiếc nón vải màu xanh cũ mèm có một lỗ rách trên chóp đội lên đầu và xách cây sào nạng chạy ra. Đến bên xuồng. Thằng Đậu bị bác Ba bảo quay trở lại:
– Bỏ hờ theo một chiếc liềm hái, coi có cỏ rác gì mọc theo bờ mà cắt vén cho lúa.
Sau đó, ông lái, cháu mũi chống xuồng qua mấy mương liếp, ra tới mé ruộng. Qua đợt mưa chum, nước đồng lênh láng như biển. Từng đợt sóng của ngọn gió nồm bỏ vòi trắng đã bổ xồng xộc vào mạn xuồng. Ông cháu bác Ba lái xuồng thả trôi theo sóng. Xuồng chạy te te trên mặt đồng, hướng mũi về phía đám lúa sa-mo. Trên mặt đồng, những nơi cỏ bắp hoặc cỏ chỉ đều bị nước ngập láng te. Những đám sậy, đám điên điển bị cỏ mục của giồng cào trôi đùn, chất lên nhau, mang theo hàng hà sa số là gián nước và kiến riệng. Sóng đánh sì soạp vào be xuồng. Gió thổi rì rào qua đám sậy. Gió đùa lất phất hàm râu lưa thưa dưới cằm bác Ba. Gió vuốt mơn man qua món tóc trán thòi ra chỗ nón rách trên đầu thằng Đậu. Cảnh thôn quê dịu dàng làm dễ chịu lòng người. Gió êm đềm mát mẻ tâm hồn người ta đến nhớ nhung mông lung vời vợi ! Hai ông cháu bác Ba cứ thả xuồng và thả hồn mình trôi vào mơ mộng.
Họ cứ mê mải mỗi người tham gia vào “câu lạc bộ” của quá khứ, của tương lai riêng biệt, không ai lái xuồng kềm cho nó đi ngay ngắn. Xuồng trôi tấp vào một con giồng cỏ cạnh miếng ruộng lúa sa-mo mà họ định đến thăm tự hồi nào. Khi nhìn thấy một khu vực mặt đồng nước sôi tim mẳn tựa có một bầy cá ròng ròng khổng lồ đang ăn mống, họ mới giật mình. Bác Ba gò xuồng lại, trở ngược ngọn sào xốc xuống đất, cột xuồng. Mở gói thuốc bánh giồng ra quấn một điếu lớn bằng ngón tay cái, ngồi bập khói, đôi mắt cứ hấp háy như còn tiếc ngẩn cơn mơ, bác Ba rầm rì phàn nàn:
– Nước ngập láng te thế này, ba cái lúa “đi ông Yẹâm” hết rồi, thật toi công.
Nhìn mặt nước sôi tim mẳn, bác Ba càng chua xót trong lòng. Nhưng dù sao bác cũng thăm dò xem đám lúa còn mất thế nào. Bác Ba uể oải ném điếu thuốc đánh xèo và chậm rãi xắn quần lội xuống ruộng. Điều trước hết làm cho bác Ba ngạc nhiên là khi hai chân vừa chạm tới đất dường như dẫm phải những bụi cỏ tươi còn đang căng sức sống ngầm mãnh liệt. Bác Ba chựng người, kêu lên một tiếng nhìn thằng Đậu rồi khom người dùng tay sờ thử. Lại một ngạc nhiên kế tiếp: tai bác nghe rõ ràng những tiếng rào rào dường như tằm đang ăn lá dâu dưới lòng nước. Kinh ngạc quá, bác Ba mò quýnh quáng trên mặt đất để tìm xem chuyện gì. Chốc sau, khi mọi việc được xác định rõ ràng, bác Ba ngẩng người lên thở ra một hơi dài, và vui vẻ báo tin với thằng Đậu:
– Lúa vẫn sống ! Lúa đang nở ngầm trong dòng nước. Mầy nghe tiếng lúa vặn mình nở rào rào đó không ?
Suốt mười ba năm sống trên thế gian nầy, thằng Đậu chưa hề nghe thấy điều kỳ quặc vậy. Nó liền nhảy ùm xuống đồng nước mò thử để kiểm nghiệm lời nói của ông nội.
Tất bật thế nào, khi phóng xuống ruộng, ống quần của nó vướng vào mũi xuồng, giật một cái đập đầu vào tấm lô, mắt đổ lửa:
– Trời đất ơi !
Nghe tiếng kêu thảm thiết của đứa cháu, bác Ba Phi vội chồm đến đỡ nó dậy. Bác vuốt ve, xuýt xoa cho nó. Cái quần vải tám của thằng Đậu tét dọc từ ống lên tới háng. Một tay túm ống quần, một tay thằng Đậu mò tìm thử xem cái chuyện lúa nở ngầm ông nội vừa nói. Quả thật ! Những bụi lúa đang vặn mình lên đâm ngạnh trê, xé bẹ nở ra lách tách nghe tựa hàng ngàn con tép rộn rã búng nhảy. Thằng Đậu mê quá, nắm gọn vào tay một bụi nghe thử sức nở của lúa. Lúa cứ xạo xự vươn mình chỉ chốc sau đó là đầy cứng một nắm tay.
– Làm sao hở ông nội ? Cứ để như vầy lúa sẽ nở đặc gật, tới chừng trổ bị lốp hết, không có một hột nhổ râu cho mà xem.
Bác Ba đứng ngẫm nghĩ một hồi rồi ra lệnh cho thằng Đậu:
– Phải đi cắt tranh về bó từng bụi lúa lại để hạn chế sức nở của nó.
Ông cháu bác Ba chống xuồng như bay lên vạt đất gò Kinh Ngang cắt chở về một xuồng cọng tranh. Từ đó cho tới chiều tối, hai người mò mẫm bó lại từng bụi lúa đang có tốc độ nở ngầm dưới nước. Đêm ấy về nhà, bác Ba Phi chống xuồng lên đầu trên, xóm dưới kêu bà con đi “bó lúa” với ông cháu bác vào ngày mai.
Sáng hôm sau già, trẻ, bé, lớn, đàn ông, đàn bà, con trai, con gái, trẻ con cả xóm rầm rộ chống xuồng ra ruộng bác Ba Phi để “bó lúa” vần công. Dĩ nhiên xuồng của ông cháu bác Ba chống tiên phuông. Lúc dắt đoàn đi gần tới miếng ruộng lúa, chợt trông thấy một hiện tượng kỳ lạ, vội hô bà con dừng lại. Những chiếc xuồng ba lá khẳm mẹp người ta dồn lại thành cục, tiếng sào khua rột rạt, tiếng người xôn xao bàn tán rì rầm nổi lên. Thấy hàng ngũ nhốn nháo mất trật tự, bác Ba hô lớn cho họ yên tâm:
– Cũng chẳng phải có chuyện gì lạ lùng lắm đâu. Dường như có kẻ nào đem lưới đại quàng lại giăng trên miếng ruộng của tôi. Bà con trông kìa, những hàng phao lưới trắng trắng, đen đen đang nổi bập bềnh đầy mặt ruộng đó.
Tất cả nhìn theo tay bác Ba Phi. Chỗ miếng ruộng, ngay khu vực bác Ba với thằng Đậu “bó lúa” hôm qua, có hàng dọc xâu chuỗi phao lưới của ai đang giăng, phao lưới màu đen có, xám có cái nào cũng bự bằng trái dừa khô. Tất cả bà con nổi giận thét lên:
– Lưới quàng sao không giăng ngoài khơi mà bắt cá đao, cá dống lại đem giăng bừa lên trên lúa ngập nước của người ta ?
Thét xong, bà con ào ào tới, không cần phải làm thông lệ là ăn trầu, hút thuốc trước khi bước xuống ruộng. Thằng Đậu đứng trước mũi, bác Ba Phi chống sau lái của chiếc xuồng đi đầu. Xuồng vượt lên ao ào, mũi lòa nước trắng dã. Bỗng nhiên thằng Đậu kêu lên:
– Coi kìa ! Mỗi chiếc phao sao lại có hai chân chòi đạp sáng nước?
Bác Ba vội vã chống sào nạng nhún liền mấy cái, chiếc xuồng vọt tới nơi. Bác đã biết rõ những cái thứ trước mặt là giống gì rồi, vội thét lên:
– Xúm lại bắt chim bà con ơi !
Nghe bác Ba Phi kêu, tất cả xuồng ùn ùn chống tới, vây quanh khoảnh ruộng có những hàng “phao lưới” nổi. Khi nhìn tận mắt họ mới vỗ tay rần rần, cười nói vang dậy trên đồng nước:
– Thật là chuyện lạ trên đời, thế gian hi hữu !
Chim ơi là chim ! Chàng bè, le le, giăng sen, cồng cộc không rõ can cớ gì mà chúng cứ chổng mông, cắm đầu xuống nước, giơ hai chân chỏi ngược lên trời ? Bà con nhảy ùm xuống ruộng mò thử xem. Rốt ra họ mới hiểu rõ nguyên nhân: Chim đang mắc kẹt đầu trong giữa bụi lúa. Đây là những loài chim ăn đêm, mò nước, bị lúa nở ra, kẹp mắc đầu vào giữa kéo không lên được. Bà con xúm lại “nhổ” chim lên, dùng dây tranh bó lúa trói chúng lại, mỗi xuồng bỏ đầy một khoang.
17- KHO LƯƠNG THỰC CỦA CHIM KÉC VÀ CHIẾC TÀU BẰNG XƯƠNG.
Mấy chục bà con giúp bác Ba Phi đến mấy ngày mới “bó” xong mười công lúa sa-mo ngập nước. Sau đó mươi hôm, lúa ló đọt lên khỏi nước. Tuy trải qua một cuộc sống ngầm trong lòng nước, lúa vẫn xanh um.
Một thời gian nữa, lúa bắt đầu trổ. Và chỉ trong vài ngày, mười công lúa sớm của bác Ba trổ rộ như mâm xôi, mặc dù từng bụi của nó vẫn còn bi bó siết trong vòng dây tranh.
Một bữa, bác Ba ra thăm ruộng về bảo với thằng Đậu rằng mười công lúa sa-mo đã vàng mơ hết rồi. Lúa trúng vô kể: bông dài, trái nẹo, ngọn xây đụn trông tựa lúa quây trong đệm. Như thế phải vào miếng ruộng cất một cái chòi để chuẩn bị kêu thợ gặt vào thu hoạch.
Sáng ngày, bác Ba bảo thằng Đậu:
– Vác búa đi cùng ông nội ra miếng ruộng đốn cây cất một cái chòi !
Độ này ngơi mưa, nước đồng cũng giựt cạn, ông cháu bác Ba kẻ vác búa, người xách liềm hái lội bộ ra miếng lúa sa-mo. Họ định vừa đốn cây dựng chòi, vừa cắt tranh lợp mái luôn. Trên đường đi, hai ông cháu lý quốc với nhau:
– Mười công lúa sớm nầy chắc thu hoạch được hai trăm giạ.
– Có nghĩa là bốn tấn một héc-ta hở ông nội ?
– Không phải. Đằng này là công tầm ba thước: tầm ta, còn tính theo héc-ta tầm hai thước sáu ba ba: tầm tây.
– Thằng Tây vô cướp nước mình nó cũng vác tầm theo nữa hở ông nội ?
– Cái thằng này tối dạ như đêm ba mươi. Tầm tây là tầm điền, tầm ta là tầm cấy, biết chưa ?
Câu chuyện hai ông cháu vụt nín ngang, họ bàng hoàng trước quang cảnh thay đổi kỳ lạ ! Mười công lúa chín mới hôm qua còn trông vàng rực, tại sao bữa nay lại đổi màu xanh lục và cứ xạo xự như đang có một cơn dông ?
Bác Ba chỉ tay bảo thằng Đậu:
– Mắt tỏ, mày xem ! Xưa nay lúa xanh chín tới hóa vàng, đằng này lúa vàng lại hóa màu xanh ?
Tuy bảo cháu, nhưng bác Ba cũng móc túi lấy cây kiếng soi ra đeo lên mắt để xem. Thằng Đậu vụt thét lớn:
– Chết rồi ông nội ơi ! Bầy kéc đang bu ăn, đậu lợp kín đám ruộng của mình !
không ai bảo ai, hai ông cháu chạy ào tới, thét to:
– Chúng mày đâu phải địa chủ, lúa mới vàng mơ lại kéo tới thu tô?
Đàn kéc trạc hà sa số nhảy nhót xôn xao. Những con kéc lớn bằng bắp tay, mỏ đỏ, ức vàng, mình xanh lá cây non cứ tranh nhau cắn đứt từng bông lúa, kêu réo om sòm. Ông cháu bác Ba đuổi xua quyết liệt. Bầy kéc hè nhau mỗi con cắn một chùm bông lúa bay lên một cái rần. Chúng đảo xây quần mấy vòng rồi hướng thẳng vào rừng U Minh mà bay. Nóng của quá, ông cháu bác Ba kẻ xách búa, người cầm liềm đuổi theo. Chạy ngang qua đám ruộng, bác Ba càng chua xót hơn ! Lúa còn trơ những rạ là rạ. Ô hô, một chục công lúa sớm trúng như bồn đã đi đới nhà ma, chẳng còn sót lại một bông. Bác Ba uất ức, chỉ liềm hái lên trời thét lớn:
– Ông thề đuổi theo tận hang ổ chúng mầy !
Thằng Đậu cũng vung búa lên thét theo:
– Con cũng thề…
Hô được mấy tiếng, thằng Đậu trượt chân té ngửa. Nó bị ông nội chạy bỏ mấy chục thước. Lồm cồm ngồi dậy, thằng Đậu cố sức đuổi theo. Bầy kéc bay ào ào xanh trời. Ông cháu bác Ba đuổi theo xồn xộn trắng nước. Chân người đuổi không kịp cánh chim bay. Chỉ một lúc ông cháu bác Ba mệt lử khử, chân hươu đá chân nai, mũi thở phì phò như kép bễ. Bầy kéc bỏ rơi hai ông cháu mỗi lúc một xa dần. Đường hàng không của kéc rộng rãi mênh mông bốn bề lộng gió mặc sức mà tung bay, khốn nỗi tuyến đường bộ của ông cháu bác Ba quanh co lùm bụi, lung đầm lầy lội. Rốt cuộc, một lúc sau đàn kéc đi mất dạng, bỏ hai ông cháu bác Ba phía sau, theo dấu những chiếc lông rơi mà lần mò định hướng.
Cũng không khó khắn cho lắm, ông cháu bác Ba vào tới rừng U Minh. Nơi đây là một khoảnh rừng cổ thụ. Những cây tràm gốc lớn cỡ ôm, những cây tràm “ông ngoại” cành đeo đầy hoa phong lan nhiều màu sắc. Những cây buồi thẳng đuột, thân tựa chiếc bồ đập lúa nhô cao thượng tầng, đứng lưa thưa rải rác. Khoảnh rừng nầy chân rừng trống, có nhiều lá mục chồng chất lên nhau thành một lớp mùn dầy đen đậm. Cạnh bìa rừng có một con đầm rộng, nước đỏ thẫm, chỗ đuôi con đầm là nối tiếp ngọn lung Xẻo Lá. Lung chạy thẳng ngang hậu đất của bác Ba.
Bấy giờ ông cháu bác Ba mới nhận ra, nếu có chiếc xuồng thì cứ bơi theo con lung này về nhà một cách thoải mái.
Ông cháu bác Ba đi luẩn quẩn trong khu rừng cổ thụ một lúc để tìm dấu vết bầy kéc, nhưng tuyệt đối chẳng thấy gì. Bác Ba thua buồn ngồi tựa lưng vào một thân cây buồi lớn như cái miếu Thổ Thần, mở gói thuốc bánh giồng ra vấn hút. Còn thằng Đậu thì chạy tung tăng, tìm gỡ những buồng hoa phong lan trắng muốt, tím rịm có mùi thơm ngào ngạt. Từng chùm hoa buông thả theo những cành cây lòng thòng đủ màu sắc, thấy mà ham ! Hết gỡ hoa phong lan, Đậu lại tìm bứt những lá “U Minh” màu xanh lục có nhiều cánh li ti uốn éo xếp lại thành hình chiếc quạt hoa quì. Thằng Đậu mê mải theo những món đồ chơi vô cùng thú vị của rừng, nó không đếm xỉa gì tới ông nội đang ngồi hút thuốc dựa gốc cây buồi kia.
– Sửa soạn long bưng lội tắt về nhà, Đậu à !
Nghe tiếng ông nội gọi, thằng Đậu vội chạy đến. Nó chợt thấy ông liền dừng lại kêu thảng thốt:
– Thánh thần ơi ! Sao đầu tóc của ông nội bạc phếu hết trơn vậy ? Ông nội ngồi chơi mà lại thay chiếc áo trắng làm chi nữa ?
Bác Ba ngơ ngác trước câu hỏi lạ lùng của thằng cháu. Bác chậm rãi đưa tay sờ lên mái tóc rồi hạ xuống nhìn, lại sờ lên vai áo, hạ xuống nhìn. Lòng bàn tay bác dính đầy một lớp bột trắng như phấn. Lấy làm lạ, bác đưa lên mũi ngửi. Bác Ba vụt châu mày, nôn ọe và phun nước miếng phì phèo.
– Mồ tổ cha, cứt chim !
Thằng Đậu ngửa cổ lên cười hăng hắc:
– Lại một lần nữa chim lấy đầu ông nội làm cầu tiêu.
Nhưng đang cười bò lết, thằng Đậu vụt nín bặt, và trỏ tay lên ngọn cây buồi:
– Không phải chim. Kéc, kéc kìa !
Bác Ba nhìn lên. Quả thật là một đàn kéc đông đến hàng hà sa số ! Kéc đậu tầng tầng, lớp lớp trên một thân cây buồi chết khô đứng trơ trọi tự bao giờ. Kéc có sắc lông xanh tựa lá cây và chúng cứ đậu một cách im lìm, làm cho ông cháu bác Ba Phi trông qua ngỡ là một thân cây còn xum xuê những lá tươi, cành rậm.
Nổi giận lôi đình cho bầy kéc vô phép, bác Ba Phi chụp chiếc búa bổ mấy nhát vào thân cây buồi chết khô, quát lớn:
– Ông phải đào mả cha chúng bây vì cái tội hỗn láo nầy !
Bầy kéc vụt bay lên một cái rần, la dậy trời đất rồi hướng về phía rừng xanh, đi thẳng, bỏ lại một thân cây buồi chết khô đến bây giờ mới hiện nguyên hình. Những nhát búa bửa của bác Ba dội ra một thứ âm thanh lạ lùng. Nếu cây buồi đặc ruột thì tiếng kêu “cạch, cạch”, còn cây buồi bộng ruột thì kêu “cum, cum” như tiếng mõ, đằng nầy… Bác Ba lưỡng lự, trở đay búa nện vào thân cây mấy nhát nữa. Rõ ràng là tiếng dội nghe bình bịch như nện vào một bồ chứa đầy lúa. Bác Ba tức mình quá, trở lưỡi búa lại chém mấy nhát thật mạnh vào thân cây. Lại một chuyện bất ngờ không thể tưởng tượng nổi: Lúa hột từ trong thân cây buồi tuôn ra như suối chảy. Ông cháu bác Ba quýnh hồn đứng chết trân một hồi lâu mới hốt lúa lên xem. Hột lúa trọng ong, rõ ràng là giống lúa sa-mo mùa sớm còn tươi rói. Bác Ba liền hiểu ra, vươn vai thở khì, dẫn giải cho thằng Đậu:
– Đây là cái kho lương thực của chim kéc. Thân cây buồi khô bộng ruột, bên trên có những lỗ rỗng. Kéc tha hết đám lúa mười công của mình về vựa vào đây.
Nghe ông nội nói, thằng Đậu nổi nóng:
– Mẹ kiếp tụi kéc ! Hồi làm mùa cứ thả phể trên mây xanh, khi thu hoạch lại kéo cả lũ đến huy động lương thực của người ta, phải khui vựa lúa của chúng mà lấy lại cho người sản xuất.
Ông cháu bác Ba bàn cách lội về mướn xuồng vô lòi kho lúa của bầy kéc. Thằng Đậu đưa ý kiến:
– Ông nội về chống ghe vô, con ở đây giữ, kẻo heo rừng kéo tới ăn lúa hết. Vừa cướp lại trên tay thầy pháp lại cúng vào tay thầy chùa ức lắm.
Bác Ba phân tích tình hình với cháu:
– Lúa hột còn nằm trong bọng cây, ta lấy bổi nhét lỗ ví lúa lại rồi cùng về chống ghe.
Thằng Đậu mừng rỡ, nhưng nó lại nhắc ông nội:
– Nhưng mà ông nội phải đi tắm cái đã, kẻo thúi lắm !
Bác Ba cười gượng, rồi bẽn lẽn lội xuống con đầm trước mặt, khoát nước tắm. Bác gội đầu và xoa râu cho trôi đi những lớp cứt kéc đang tô đầy trên người. Nước đầm sâu đến cổ, màu đỏ thẫm và mát lạnh. Nước ngọt ngào làm sao ! Càng tắm bác Ba càng thấy mát mẻ dễ chịu. Bác nghe tâm hồn sảng khoái, thân thể nhẹ nhàng, khỏe khoắn vô cùng. Như quên hết tuổi già đã qua lục tuần, bác Ba cảm giác đang sống lại thời thanh niên tráng kiện. Bác tung mình quẫy nước nhào lộn mấy vòng cho thỏa thích. Nhưng sau một cái lộn mèo cuối cùng, bỗng đầu bác Ba chạm vào một vật cứng và lớn tựa bộ ngựa nằm dưới lòng nước. Mặc dù đầu bị ê ẩm, bác Ba cũng dò bàn chân sờ thử vào vật kia. Vật đó có mô hình khum khum như nấm mả, thân lớn gấp ba chiếc giường ngủ nhập lại. Không lẽ giữa đầm lầy trong rừng lại nổi cù lao ? Bác Ba sờ kỹ mép bìa của cái mô, hồi lâu bác mới thở ra cái khì và xác nhận đó là gì. Bác đưa tay ngoắc thằng Đậu.
Thấy ông nội gọi, thằng Đậu vội nhảy ùm xuống đầm. Sau khi nghe lời ông, lặn một hơi dài xuống nước sờ thử theo mép rìa của cái mô, thằng Đậu nổi lên la lớn:
– Con càng đước quá mạng, ông nội ơi ! Rìa mu có răng cưa mà.
Bởi vì là một cái mu con rùa thì không đời nào mép rìa trước và phía sau có hình răng cưa lồi lõm, thằng Đậu đã thừa biết điều này. Bác Ba phì cười, đáp lại lời cháu:
– Quả thật là con càng đước, nhưng nó đã rũ xương rồi,còn có cái bọng không.
Sau khi nghiên cứu kỹ, ông cháu bác Ba Phi quyết định lên bờ đốn cây, chặt dây mây cột, trục cái mu con càng đước rũ xác này lên, có việc rất cần thiết. Thế rồi họ xốc cắm những cây đòn xeo, đòn trục gát nạng qua và một sợi dây mây dốc đánh thật lớn. Xong đâu đó, hai ông cháu cầm những cây nằm đẽo dẹp xoe vòng theo rìa chiếc mu con càng đước phần lấp trong bùn. Rồi kẻ dưới nước, người trên bờ hè hụi xeo, trục. Quay gần suốt một tiếng đồng hồ cái mu con càng đước mới bật lên, rồi dùng búa bửa bỏ phần cái yếm bên dưới. Hai ông cháu bác Ba trổ nghề “đóng tàu” dã chiến đến mệt phở hơi tai. Thằng Đậu múc nước chùi rửa sạch sẽ lòng tàu, rồi hai ông cháu bắt đầu hạ thủy. Hai người nhìn cái mu con càng đước lật ngửa trên nước mà cười ngất, thật là nó lớn không thua chiếc phum của đám quận Nhung.
Ông cháu bác Ba dùng cái yếm con càng đước làm bàn khiêng. Họ bổ rộng lỗ hổng “kho lương thực” của lũ kéc cho lúa chảy ra rào rào. Cứ như thế, hết khiêng này đến khiêng khác, hai ông cháu chuyển sạch kho lúa của kéc xuống tàu.
“Tàu” cứ đi bon bon về hướng hậu đất. Thấy chỉ trong vòng một ngày mà gặp bao nhiêu là chuyện lạ nhất trần đời, thằng Đậu ngồi trước mũi vít đốc, cười nói huyên thiên:
– Bọn ngụy chở lính bằng tàu sắt, chủ đò chở khách bằng tàu cây, còn ông cháu mình thì chở lúa bằng tàu… xương, hén ông nội ?
18- VÌ THÙ VẶT MÀ CHÚA SƠN LÂM TRỞ THÀNH KẺ KHỔ SAI.
Chiếc tàu “xương” của ông cháu bác Ba chở mấy chục giạ lúa về tới tận hậu đất, chỗ bờ đìa cuối con lung, bác Ba Phi bảo thằng Đậu:
– Mầy về nhà lấy đệm, thúng ra. Sẵn có bờ đìa cao ráo xúc lúa lên đây phơi luôn.
Sau đó ông cháu bác Ba Phi trải đệm trên bờ đìa, dùng thúng xúc hết lúa hột dưới mu con càng đước lên mới dắt nhau về nhà.
Sáng hôm sau, một mình bác Ba chống xuồng ra bờ đìa để trải đệm, cào lúa ra phơi. Bác xúc từng thúng lúa đổ ra cán thật đều cho hứng lấy ánh nắng. Đang làm, bác Ba nghe bụng hơi nôn, rề lại đầu đìa tìm chỗ “làm vệ sinh”. Bác ngồi quay lưng về phía mé rừng, phía có một lùm ráng cao. Hai chân ngồi đạp trên hai đầu gốc cây, gió thổi lòn hiu hiu mát rượi, thật là một chỗ “đi cầu” lý tưởng, bác Ba nghe lòng khoan khoái, vuốt râu, thầm thào ngâm mấy câu thơ “tráng sĩ hề”. Trong lúc hứng thú, bỗng có một mùi khen khét theo gió phất qua làm bác Ba giật mình ! Bác biết ngay là mùi gì rồi. Nghe gáy bắt đầu rờn rợn, ốc nổi rần sống lưng. Bác Ba cứ liếc chừng vào lùm ráng, nghĩ thầm: “Ông Ba Mươi lảng vảng đâu đây”. Bác lắng nghe từ trong lùm rậm có tiếng động. Bác nực cười, lại nghĩ: “Chọc đến ông, ông cho mầy đi rửa tay cho biết xấu”. Một tay nắm lưng quần, bác Ba cứ liếc nhìn không rời chỗ lùm ráng. Chỉ vài tích tắc, tức thì một cái bóng vằn vện tựa bức vải gấm từ phía ấy bay vèo đến, chụp phủ lên người bác Ba. Đã có chuẩn bị sẵn, bác Ba xách quần trịch ngang. Bàn tay trái con cọp chụp phải bãi phân còn nóng hổi của bác Ba. Bị dơ tay, cọp phải đưa lên trời chịu trận. Thấy thế, bác Ba cả cười, điểm tay vào cọp:
– Một lần cho bỏ tật rình rập sau lưng nghe !
Con cọp gấm vừa ức vừa xấu hổ nhăn mặt, khịt mũi gầm lên một tiếng như đe dọa sẽ còn gặp nhau, rồi tốc chạy. Cọp chạy bằng một chân trước với hai chân sau, một chân dính phân phải đưa lên trời để khỏi bị thúi. Nhưng cọp chạy về hướng xuôi gió, mùi hôi thúi cứ bay quận theo hoài. Cuối cùng cọp nhảy lững cững băng hai giò sau, cái tay còn lại đưa lên bụm mũi.
Cọp gấm chạy xa, bác Ba Phi đứng một mình suy nghĩ rồi cảm thấy sợ ngầm. Giống cọp hay thù vặt lắm ! Nhất định nó sẽ tìm cách trả thù. Nghĩ vậy, đầu óc bác Ba luôn ray rứt, suốt buổi phơi lúa bác không yên tâm. Bác moi óc tìm cách làm cho cọp tản thần một phen mà bỏ luôn cái thói thù vặt.
Qua câu chuyện truyền thuyết về Thị Cư đánh cọp ở ngã ba Tàu… làm cho bác Ba Phi thấm thía một bài học về quan điểm đối địch dứt khoát với kẻ thù. Bác lại nhớ về chuyện ông Tánh và con chó cò đánh cọp tại đường Thét Lãi…
Đó là một bài học thứ hai cho bác Ba Phi về cách đánh cọp, phải biết hợp đồng và đoàn kết, sống chết không bỏ nhau. Bác Ba lại nhớ thêm một chuyện ông Phò ở Cái Bác… và đây là một bài học thứ ba mà bác Ba Phi kết luận là “đánh rắn thì phải đánh cho giập đầu, đánh cọp thì phải đánh cho biết mặt”. Qua một loạt rút kinh nghiệm qua chuyện đời xưa, bác Ba cảm thấy yên tâm. Ông cha làm được thì mình làm được. Đã lỡ gây sự với cọp thì phải quyết một trận ăn thua cho tới nơi tới chốn, đừng để chúng dễ ngươi mà xấu hổ lương tâm với những người tiền bối.
Đêm ấy bác Ba nằm trằn trọc đến canh ba vẫn chưa ngủ được. Bác cứ nghiên cứu mãi xem có cách nào đánh con cọp gấm này một trận cho nhớ tới già. Con tắc kè trên đầu xông nhà cứ kêu từng hồi như ngầm hỏi thăm bác tính ra mưu chước gì chưa. Nhưng đến khoảng cuối canh ba, bác Ba vụt bật dậy vỗ đùi đánh đét và à lên một tiếng lớn. Ngủ mùng gần bên, thằng Đậu giật mình choàng dậy, hỏi dồn:
– Quạ bắt gà, gắp khô ban đêm, hả ông nội ?
– Quạ diều gì đâu, ông nội ngáp mà. Dậy nhóm cho ông nội bếp lửa, mau đi.
Thằng Đậu say ke sật sừ, đi làm nhưng nó cứ mắt nhắm mắt mở, cằn nhằn:
– Nửa đêm lại vỗ tay la “quạ” rồi cười. Có thèm trà thì kêu dậy nấu cho mà uống, la lối giật mình…
Thằng Đậu múc ấm nước định bắc lên bếp lửa, nhưng dừng lại hỏi:
– Nước trong bình thủy nguội hết rồi sao, nội ?
Bác Ba thấy thằng cháu định bắc ấm nước lên bếp, vội cản:
– Nước uống còn thiếu gì. Để bếp lửa đó cho ông.
Bác Ba lại đầu bếp bê cái nồi dầu chai lớn, è ạch bắc lên bếp lửa. Bác chụm lửa cho nồi dầu chai sôi ành ạch, phì bọt xì khói xanh, rồi với lên gác lấy cây giàn xay lúa xuống. Thằng Đậu lạ lùng khi thấy ông nội dùng cây nằm vít dầu chai phệt vào cán giàn xay, nó vọt miệng hỏi:
– Ông nội chơi vậy, rồi làm sao ngày mai mình nắm tay vào cán giàn xay mà xay lúa ?
– Ấy, mình không xay được thì có kẻ khác xay thế.
Chỉ nói vậy, bác Ba lại làm thinh, thằng Đậu càng ức, hỏi tiếp:
– Ai xay cũng vậy, càn giàn xay tô đầy dầu chai, nắm vào đó có nước mà điên, tay mắc cứng, xay luôn tới chiều không buông ra được.
Bác Ba vẫn giữ bí mật:
– Bởi vậy ông phải bắt kẻ khổ sai xay lúa bằng cây giàn xay cán có tô dầu chai.
Và bức màn bí mật ấy bác Ba Phi cứ giữ kín với thằng Đậu cho đến lúc trời sáng. Khi hai người dọn nia, nong, thúng, sàng, đệm, cối xay xuống xuồng, bác Ba Phi cũng cứ giữ bí mật. Bác bắt thằng Đậu khiêng chiếc giàn xay kỳ quặc kia để nằm ngang trên xuồng và kê kỹ đừng để cho dầu chai dính vào các thứ khác. Thằng Đậu dùng dằng thắc mắc. Đến vậy mà bác Ba vẫn giữ kín miệng như bưng.
Ra đến bờ đìa, ông cháu bác Ba trải đệm, đốn cây xốc nạng, khiêng cối xay lên, cột dây treo giàn và xúc lúa đổ vào cối, bắt đầu xay. Bây giờ bác Ba mới dặn thằng Đậu một câu rất tối nghĩa:
– Dù có gặp trường hợp nào, tỉ như sập trời mầy cũng phải đứng xúc lúa đổ vô cối, đừng bỏ chạy nghe Đậu !
Nói xong, bác Ba đứng vào chỗ xay lúa. Bác dùng hai lá môn bao cán giàn xay cho dầu chai khỏi dính tay rồi bắt đầu quay cối rào rào. Thằng Đậu xúc thúng lúa đứng hờm mé, thấy cối giựt lúa xuống thì châm thêm. Xay được mấy cối, hai ông cháu bỗng nghe có tiếng động sột soạt trong lùm ráng sau lưng. Thằng Đậu chưa biết gì cứ đứng ngớ người ra nhìn ông nội bằng cặp mắt lo lắng. Bác Ba nhìn cháu nội, cười để trấn an nó. Lúc ấy bác Ba càng đẩy giàn xay cho cối quay nhanh thêm. Chiếc cối quay, mắt bác Ba cứ liếc chừng vào lùm ráng sau lưng. Trong lúc chiếc giàn xay đẩy tới thụt lui thắng khói trong tay bác Ba thì từ trong lùm ráng dội lên một tiếng “à uôm” vang dậy. Một thân con cọp vằn vện bay vèo đến, chụp phủ lên người bác Ba Phi. Đã chuẩn bị đón tiếp đối phương suốt đêm, bác Ba không một phút chậm trễ, tràn người ngang thụp xuống ngồi dưới dạ cán chiếc giàn xay. Con cọp gấm hung hăng chụp hụt bác Ba, hai tay vớ phải cán giàn xay, không tài nào gỡ ra nổi. Cọp gấm tức tối lồng lộn, gầm rú om sòm. Bác Ba luồn lại sau lưng cọp, bung cho nó một đá vào đít. Trớn tay cối quay vòng kéo chiếc giàn xay chồm tới, thụt lui, con cọp bị lôi theo chồm tới, ghị lui. Kế tiếp bị một đá của bác Ba làm thốn đít, cọp càng chồm tới, ghị lui dữ tợn hơn. Thế là theo đà quay của cối lôi con cọp cứ chồm tới – ghị lui, chồm tới – ghị lui… Hai tay cọp dính cứng dầu chai ở cán giàn xay không tài nào gỡ ra được.
Bác Ba Phi chuyển giao công việc xay lúa cho cọp gấm xong, nhìn lại thấy thằng Đậu đứng chết trân, hồn vía nó đã bay lên mây từ hồi nào, cứ bưng thúng lúa đổ vãi nửa trong nửa ngoài. Bác Ba tươi cười bước đến vỗ vai Đậu động viên:
– Bình tĩnh lại, có ông nội đây !
Bây giờ thằng Đậu mới tỉnh hồn, gượng cười, trao thúng lại cho ông nội. Từ đó ông cháu bác Ba cứ thay phiên nhau xúc lúa đổ vô cối cho cọp xay.
Con cọp gấm xay lúa một hồi thấm mệt, đẩy kéo vòng quay hơi chậm lại. Thấy vậy bác Ba bảo thằng Đậu:
– Châm nhiên liệu thêm cho cái máy xay xát của mình, Đậu !
Thằng Đậu đi bắt một con ong vò vẽ đem lại cho nó chích vào trứng dái con cọp gấm. Con cọp bị ong đốt, lồng lên, chồm tới -giật lui nhanh hơn trước. Cứ như thế, khi thấy cọp hơi uể oải, thằng Đậu cho ong vò vẽ đốt vào dái nó một cái, và cười om lên:
– Tao châm thêm nhiên liệu nè !
Bác Ba Phi đương xúc lúa đổ vào cối cho con cọp xay đến hết hai chục giạ, nhưng nó vẫn còn hăng, cứ đứng quay vù vù cái cối không thôi.
Thấy bắt cọp làm khổ sai bao nhiêu đó cũng đủ rồi, bác Ba nắm mỏ giàn xay dở lên, đẩy lách sang một bên. Con cọp bị lỡ đà, đẩy chiếc giàn xay phóng tuốt xuống lung. Nhờ thấm nước, tay con cọp được tróc mớ dầu chai dính ở cán giàn xay. Cọp lội lõm bõm qua bên kia lung, vừa đi vào rừng vừa thở hổn hển.
Bác Ba Phi cùng thằng Đậu vỗ tay cười, kêu với theo:
– Một lần cho tởn tới già, bỏ thói thù vặt với ông cháu Ba Phi nghe chưa!